Mẹ Teresa luôn là một hình tượng đặc biệt trong lòng những người
biết đến bà. Bà đứng vào hàng ngũ các vĩ nhân không phải vì các chiến công hay
tài năng đặc biệt, mà là sự bền bỉ, tận tuỵ hi sinh trong hơn 45 năm chăm sóc
người nghèo, bệnh tật, trẻ mồ côi, người hấp hối.
Chúng ta hãy cùng nhau đọc bài diễn văn tràn ngập tình yêu thương
của bà tại lễ trao giải Nobel Hoà Bình.
Nobel Lecture 11 December, 1979
Diễn văn Nobel
11 tháng 12, 1979
11 tháng 12, 1979
As we have gathered here together to thank God for the Nobel Peace
Prize I think it will be beautiful that we pray the prayer of St. Francis of
Assisi which always surprises me very much – we pray this prayer every day
after Holy Communion, because it is very fitting for each one of us, and I
always wonder that 4-500 years ago as St. Francis of Assisi composed this prayer
that they had the same difficulties that we have today, as we compose this
prayer that fits very nicely for us also. I think some of you already have got
it – so we will pray together.
Trong khi chúng ta tập hợp với nhau ở đây để cảm ơn Chúa về giải
Nobel Hòa bình, tôi nghĩ thật là tuyệt vời để chúng ta cầu nguyện lời nguyện
của Thánh Phanxicô Assisi, lời nguyện luôn làm tôi rất ngạc nhiên – chúng tôi
cầu nguyện lời này mỗi ngày sau khi Rước Lễ, vì rất hợp cho mỗi người chúng
tôi, và tôi luôn tự hỏi rằng 4-500 năm trước đây, khi Thánh Phanxicô Assisi lập
lời cầu nguyện này người ta có những khó khăn như chúng ta có ngày hôm nay, như
chúng ta lập lời cầu nguyện này cũng rất phù hợp với chúng ta. Tôi nghĩ một số
bạn đã có bài nguyện rồi – vậy chúng ta sẽ cùng nhau cầu nguyện.
Let us thank God for the
opportunity that we all have together today, for this gift of peace that
reminds us that we have been created to live that peace, and Jesus became man
to bring that good news to the poor. He being God became man in all things like
us except sin, and he proclaimed very clearly that he had come to give the good
news. The news was peace to all of good will and this is something that we all
want – the peace of heart – and God loved the world so much that he gave his
son – it was a giving – it is as much as if to say it hurt God to give, because
he loved the world so much that he gave his son, and he gave him to Virgin
Mary, and what did she do with him?
Chúng ta hãy cảm tạ ơn Chúa cho cơ hội mà tất cả chúng ta đã có
cùng nhau hôm nay, cho món quà của hòa bình để nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta
đã được tạo ra để sống hòa bình đó, và Chúa Giêsu đã trở thành người để đem tin
mừng đến cho người nghèo. Ngài là Đức Chúa Trời đã trở thành con người với tất
cả những gì giống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, và Ngài tuyên bố rất rõ ràng
rằng Ngài đã đến để ban tin mừng. Tin mừng đó là hòa bình cho mọi người thiện
tâm và đây là điều mà tất cả chúng ta đều muốn – sự bình an của tâm hồn – và
Chúa yêu thương thế gian đến nỗi Ngài đã ban con trai của Ngài – là một sự hiến
dâng – nhiều như thể nói là Chúa rất đau lòng để cho, vì Ngài yêu thương thế
gian nhiều đến Ngài nỗi đã ban con trai của Ngài, và Ngài trao con cho Đức Mẹ
Maria Đồng trinh, và Đức Mẹ đã làm gì với đứa con đó?
As soon as he came in
her life – immediately she went in haste to give that good news, and as she
came into the house of her cousin, the child – the unborn child – the child in
the womb of Elizabeth, leapt with joy. He was that little unborn child, was the
first messenger of peace. He recognised the Prince of Peace, he recognised that
Christ has come to bring the good news for you and for me. And as if that was
not enough – it was not enough to become a man – he died on the cross to show
that greater love, and he died for you and for me and for that leper and for
that man dying of hunger and that naked person lying in the street not only of
Calcutta, but of Africa, and New York, and London, and Oslo – and insisted that
we love one another as he loves each one of us. And we read that in the Gospel
very clearly – love as I have loved you – as I love you – as the Father has
loved me, I love you – and the harder the Father loved him, he gave him to us,
and how much we love one another, we, too, must give each other until it hurts.
It is not enough for us to say: I love God, but I do not love my neighbour. St.
John says you are a liar if you say you love God and you don’t love your
neighbour. How can you love God whom you do not see, if you do not love your
neighbour whom you see, whom you touch, with whom you live. And so this is very
important for us to realise that love, to be true, has to hurt. It hurt Jesus
to love us, it hurt him. And to make sure we remember his great love he made
himself the bread of life to satisfy our hunger for his love. Our hunger for
God, because we have been created for that love. We have been created in his
image. We have been created to love and be loved, and then he has become man to
make it possible for us to love as he loved us. He makes himself the hungry one
– the naked one – the homeless one – the sick one – the one in prison – the
lonely one – the unwanted one – and he says: You did it to me. Hungry for our
love, and this is the hunger of our poor people. This is the hunger that you
and I must find, it may be in our own home.
Ngay sau khi đứa con đến với cuộc đời của bà – ngay lập tức bà đã
ban bố tin vui đó, và khi bà vào ngôi nhà của người em họ, đứa bé – đứa bé chưa
sinh ra – đứa bé trong bụng mẹ của Elizabeth, nhảy nhót với niềm vui. Đó là đứa
bé chưa sinh ra, là sứ giả đầu tiên của hòa bình. Đứa bé đã nhận là Hoàng tử
của Hòa bình, Ngài đã nhận ra rằng Đấng Cứu Thế đã đến để mang lại tin vui cho
bạn và cho tôi. Và như thể đó là không đủ – trở thành một con người cũng chưa đủ
– Ngài đã chết trên thánh giá để cho thấy tình yêu vĩ đại hơn, và Ngài đã chết
cho bạn và cho tôi và cho người phong cùi đó và cho người chết vì đói đó và
người trần truồng nằm trên đường phố đó, không những chỉ ở Calcutta, nhưng ở
châu Phi, và New York và London, Oslo – và đòi hỏi rằng chúng ta yêu nhau như
Ngài yêu mỗi người chúng ta. Và chúng ta đọc điều đó trong Phúc Âm g rất rõ
ràng – yêu như Ta đã yêu con – như Ta yêu con – như Chúa Cha đã yêu Ta, Ta yêu
con – và Chúa Cha yêu Ngài hơn bao nhiêu, Chúa Cha đã cống hiến Ngài cho chúng
ta, và chúng ta yêu nhau bao nhiêu, chúng ta cũng phải yêu nhau cho đến khi đau
đớn. Không đủ để chúng ta nói: Tôi yêu Chúa, nhưng tôi không yêu người láng
giềng của tôi. Thánh John nói rằng bạn là một kẻ nói dối nếu bạn nói bạn yêu
Chúa mà bạn không yêu người láng giềng của bạn. Làm sao mà bạn có thể yêu Chúa
người mà bạn không nhìn thấy, nếu bạn không yêu người láng giềng người mà bạn
nhìn thấy, người bạn tiếp xúc, người mà bạn cùng sống. Và vì vậy rất quan trọng
đối với chúng ta để nhận ra rằng tình yêu, để thật sự có, phải là đau đớn.
Giêsu chịu yêu chúng ta, điều đó làm Ngài đau đớn. Và để đảm bảo rằng chúng ta
nhớ đến tình yêu tuyệt vời của Ngài, Ngài biến thành thức ăn của đời sống để
thỏa mãn cơn đói của chúng ta đối với tình yêu của Ngài. Chúng ta đói khát
Chúa, vì chúng ta được tạo ra cho tình yêu đó. Chúng ta được tạo ra trong hình
ảnh của Chúa. Chúng ta được tạo ra để yêu và để được yêu, và Chúa đã trở thành
người để giúp chúng ta có thể yêu như Ngài đã yêu chúng ta. Ngài biến thành
người đói – người trần truồng – người không nhà – người bệnh hoạn – người trong
tù – người cô đơn – người bị từ chối – và Ngài nói: Con đã chăm sóc ta. Đói cho
tình yêu của chúng ta, và đây là sự đói khát của con người chúng ta. Đây là sự
đói khát mà bạn và tôi phải tìm kiếm, nó có thể ngay trong nhà của chúng ta.
I never forget an
opportunity I had in visiting a home where they had all these old parents of
sons and daughters who had just put them in an institution and forgotten maybe.
And I went there, and I saw in that home they had everything, beautiful things,
but everybody was looking towards the door. And I did not see a single one with
their smile on their face. And I turned to the Sister and I asked: How is that?
How is it that the people they have everything here, why are they all looking
towards the door, why are they not smiling? I am so used to see the smile on
our people, even the dying one smile, and she said: This is nearly every day,
they are expecting, they are hoping that a son or daughter will come to visit
them. They are hurt because they are forgotten, and see – this is where love
comes. That poverty comes right there in our own home, even neglect to love.
Maybe in our own family we have somebody who is feeling lonely, who is feeling
sick, who is feeling worried, and these are difficult days for everybody. Are
we there, are we there to receive them, is the mother there to receive the
child?
Tôi không bao giờ quên một dịp tôi đã viếng thăm một nhà nơi nhiều
cha mẹ già của những người con trai và con gái bị con cái đưa vào viện dưỡng
lão và có thể là bị bỏ quên. Và tôi đến đó, và tôi thấy trong nhà đó họ có tất
cả mọi thứ, những thứ xinh đẹp, nhưng mọi người đều nhìn ra phía cánh cửa. Và
tôi không thấy một người nào với nụ cười trên khuôn mặt của họ. Và tôi quay
sang Chị và tôi hỏi: Làm sao thế? Sao mà người có tất cả ở đây, tại sao tất cả
đều trông ra phía cánh cửa, tại sao họ không cười? Tôi quen nhìn thấy nụ cười
của mọi người, thậm chí người sắp chết cũng cười, và Chị nói: Điều này hầu như
mỗi ngày, họ đang mong đợi, họ đang hy vọng rằng những người con trai hay con
gái sẽ đến thăm họ. Họ bị tổn thương bởi vì họ đang bị lãng quên, và nhìn xem –
đây là nơi mà tình yêu đến. Sự nghèo đói đó đến ngay chính trong nhà của chúng
ta, thậm chí bỏ bê tình yêu. Có lẽ ngay trong gia đình của chúng ta, chúng ta
có người đang cảm thấy cô đơn, cảm thấy bệnh hoạn, cảm thấy lo lắng, và đây là
những ngày khó khăn cho tất cả mọi người. Chúng ta có ở đó không, chúng ta có ở
đó để đón nhận họ không có người mẹ nào hiện diện để nhận con mình?
I was surprised in the
West to see so many young boys and girls given into drugs, and I tried to find
out why – why is it like that, and the answer was: Because there is no one in
the family to receive them. Father and mother are so busy they have no time.
Young parents are in some institution and the child takes back to the street
and gets involved in something. We are talking of peace. These are things that
break peace, but I feel the greatest destroyer of peace today is abortion,
because it is a direct war, a direct killing – direct murder by the mother
herself. And we read in the Scripture, for God says very clearly: Even if a
mother could forget her child – I will not forget you – I have carved you in the
palm of my hand. We are carved in the palm of His hand, so close to Him that
unborn child has been carved in the hand of God. And that is what strikes me
most, the beginning of that sentence, that even if a mother could forget
something impossible – but even if she could forget – I will not forget you.
And today the greatest means – the greatest destroyer of peace is abortion. And
we who are standing here – our parents wanted us. We would not be here if our
parents would do that to us. Our children, we want them, we love them, but what
of the millions. Many people are very, very concerned with the children in
India, with the children in Africa where quite a number die, maybe of
malnutrition, of hunger and so on, but millions are dying deliberately by the will
of the mother. And this is what is the greatest destroyer of peace today.
Because if a mother can kill her own child – what is left for me to kill you
and you kill me – there is nothing between. And this I appeal in India, I
appeal everywhere: Let us bring the child back, and this year being the child’s
year: What have we done for the child? At the beginning of the year I told, I
spoke everywhere and I said: Let us make this year that we make every single
child born, and unborn, wanted. And today is the end of the year, have we
really made the children wanted? I will give you something terrifying. We are
fighting abortion by adoption, we have saved thousands of lives, we have sent
words to all the clinics, to the hospitals, police stations – please don’t
destroy the child, we will take the child. So every hour of the day and night
it is always somebody, we have quite a number of unwedded mothers – tell them
come, we will take care of you, we will take the child from you, and we will
get a home for the child. And we have a tremendous demand from families who
have no children, that is the blessing of God for us. And also, we are doing
another thing which is very beautiful – we are teaching our beggars, our
leprosy patients, our slum dwellers, our people of the street, natural family
planning.
Tôi ngạc nhiên khi thấy rất nhiều thanh niên và thiếu nữ phương
Tây bị nghiện thuốc phiện, và tôi cố gắng để tìm hiểu tại sao – tại sao là như
thế, và câu trả lời là: Bởi vì không có ai trong gia đình để đón nhận chúng. Cha
và mẹ quá bận rộn họ không có thời gian. Các bậc cha mẹ trẻ đang ở tại một cơ
sở nào đó và những đứa trẻ quay trở ra đường phố và vướng vào cái gì đó. Chúng
ta đang nói về hòa bình. Đây là những điều phá hoại hòa bình, nhưng tôi cảm
thấy điều tàn phá hoà bình vĩ đại nhất ngày nay là phá thai, bởi vì nó là một
cuộc chiến tranh trực tiếp, cuộc giết hại trực tiếp – cuộc sát hại trực tiếp
bởi chính người mẹ. Và chúng ta đọc trong Kinh Thánh, vì Chúa nói rất rõ ràng:
Ngay cả khi một người mẹ có thể quên con mình – Ta sẽ không quên con – Ta đã
khắc con trên lòng bàn tay của Ta. Chúng ta đã được khắc trong bàn tay của
Ngài, thân mật với Ngài đến mức thai nhi đã được khắc trong bàn tay của ngài.
Và đó là điều đập vào tôi mạnh nhất, lời bắt đầu của câu đó, thậm chí nếu một
người mẹ có thể quên một điều không thể quên – nhưng ngay cả khi cô ta có thể
quên – Ta sẽ không quên con. Và ngày nay điều tàn ác lớn nhất – điều tàn phá
hòa bình lớn nhất là phá thai. Và chúng ta những người đang đứng ở đây – cha mẹ
của chúng ta đã muốn có chúng ta. Chúng ta đã không ở đây nếu cha mẹ của chúng
ta đã làm điều đó với chúng ta. Con cái của chúng ta, chúng ta muốn chúng,
chúng ta yêu chúng, nhưng với hàng triệu người khác thì sao? Nhiều người rất,
rất quan tâm với trẻ em ở Ấn Độ, với trẻ em ở châu Phi nơi mà có khá nhiều số
chết, có thể vì suy dinh dưỡng, vì đói khát và vì nhiều thứ, nhưng hàng triệu
chết bởi ý muốn cố y’ của người mẹ. Và điều này ngày nay là điều tàn phá hòa
bình lớn nhất. Vì nếu người mẹ có thể giết con của chính mình – có cái gì còn
lại cho tôi để giết bạn và bạn giết tôi – không còn điều gì nữa giữa hai ta. Và
điều này tôi kêu gọi ở Ấn Độ, kêu gọi ở khắp mọi nơi: Hãy mang trẻ thơ trở lại,
và năm nay là năm của trẻ thơ: chúng ta đã làm được gì cho trẻ thơ? Vào đầu năm
tôi đã bảo, tôi đã diễn thuyết ở khắp mọi nơi và tôi đã nói: Năm nay hãy làm
cho mọi trẻ thơ đã sinh, và chưa sinh, được bố mẹ muốn sinh. Và hôm nay là cuối
năm, chúng ta đã thực sự làm cho các trẻ thơ được bố mẹ muốn sinh chưa? Tôi sẽ
cho các bạn biết vài điều đáng sợ. Chúng tôi đang đấu tranh phá thai bằng cách
nhận con nuôi, chúng tôi đã bảo vệ được hàng ngàn emm, chúng tôi đã nhắn lời
đến tất cả các phòng khám, bệnh viện, trạm cảnh sát – xin đừng hủy hoại trẻ
thơ, chúng tôi sẽ nhận đứa trẻ. Vì vậy, mỗi giờ trong ngày hay đêm luôn luôn là
một ai đó, chúng tôi có khá nhiều bà mẹ chưa cưới – kêu họ đến, chúng tôi sẽ
chăm sóc bạn, chúng tôi sẽ nhận con của bạn, và chúng tôi sẽ cho trẻ thơ một
mái ấm. Và chúng ta có nhu cầu lớn từ những gia đình không có con, đó là phước
lành của Chúa đối với chúng ta. Và nữa, chúng tôi cũng đang làm một điều rất
đẹp – chúng tôi đang dạy những người ăn xin, bệnh nhân phong cùi, cư dân khu ổ
chuột, người không nhà, kế hoạch hóa gia đình theo cách tự nhiên.
And in Calcutta alone in
six years – it is all in Calcutta – we have had 61,273 babies less from the
families who would have had, but because they practise this natural way of
abstaining, of self-control, out of love for each other. We teach them the
temperature meter which is very beautiful, very simple, and our poor people
understand. And you know what they have told me? Our family is healthy, our
family is united, and we can have a baby whenever we want. So clear – those
people in the street, those beggars – and I think that if our people can do
like that how much more you and all the others who can know the ways and means
without destroying the life that God has created in us.
Và riêng vùng Calcutta trong sáu năm – tất cả đều ở Calcutta,
chúng tôi đã giảm được 61.273 trẻ sơ sinh trong các gia đình đáng lẽ phải có
con, nhưng vì họ thực hành kiêng cữ bằng cách tự nhiên, tự kiểm soát, qua tình
yêu cho nhau. Chúng tôi dạy cho họ cách đo nhiệt độ rất đẹp, rất đơn giản, và
những người nghèo của chúng tôi hiểu. Và bạn biết những gì họ đã nói với tôi
không? Gia đình chúng tôi được khỏe mạnh, gia đình chúng tôi đoàn kết, và chúng
tôi có thể có con bất cứ khi nào chúng tôi muốn. Quá rõ ràng – những người lang
thang đường phố, những người ăn xin – và tôi nghĩ rằng nếu người của chúng tôi
có thể làm như thế thì bạn và tất cả người khác có thể làm nhiều hơn thế nào vì
các bạn biết được cách thức và phương tiện (kế hoạc hóa gia đình) mà không hủy
hoại sự sống Chúa đã tạo ra trong chúng ta.
The poor people are very
great people. They can teach us so many beautiful things. The other day one of
them came to thank and said: You people who have vowed chastity you are the
best people to teach us family planning. Because it is nothing more than
self-control out of love for each other. And I think they said a beautiful
sentence. And these are people who maybe have nothing to eat, maybe they have
not a home where to live, but they are great people. The poor are very
wonderful people. One evening we went out and we picked up four people from the
street. And one of them was in a most terrible condition – and I told the
Sisters: You take care of the other three, I take of this one that looked
worse. So I did for her all that my love can do. I put her in bed, and there
was such a beautiful smile on her face. She took hold of my hand, as she said
one word only: Thank you – and she died.
Những người dân nghèo là những người rất tuyệt vời. Họ có thể dạy
chúng ta nhiều điều rất đẹp. Một ngày nọ một trong số họ đến để cảm ơn và nói:
Các soeurs, những người đã thể nguyện đức tinh khiết là những người tốt nhất để
dạy chúng tôi kế hoạch hóa gia đình. Bởi vì nó không gì ngoài ra sự tự kiểm
soát tình yêu dành cho nhau. Và tôi nghĩ rằng họ đã nói một câu tuyệt đẹp. Và
đây là những người có thể không có gì để ăn, không có nhà để ở, nhưng họ là
những người tuyệt vời. Người nghèo là những người rất tuyệt vời. Một buổi tối,
chúng tôi ra ngoài và gặp bốn người trên đường phố. Và một trong số đó đang
trong tình trạng khủng khiếp nhất – và tôi nói với các soeurs: Chị chăm sóc ba
người kia, tôi chăm người này trông tồi tệ nhất. Và, tôi đã làm tất cả những gì
tình yêu của tôi có thể. Tôi đặt cô ấy trên giường, và một nụ cười nở rất đẹp
trên khuôn mặt của cô. Cô ta nắm lấy tay tôi, nói một lời duy nhất: Cảm ơn – và
cô đã chết.
I could not help but
examine my conscience before her, and I asked what would I say if I was in her
place. And my answer was very simple. I would have tried to draw a little
attention to myself, I would have said I am hungry, that I am dying, I am cold,
I am in pain, or something, but she gave me much more – she gave me her
grateful love. And she died with a smile on her face. As that man whom we
picked up from the drain, half eaten with worms, and we brought him to the
home. I have lived like an animal in the street, but I am going to die like an
angel, loved and cared for. And it was so wonderful to see the greatness of
that man who could speak like that, who could die like that without blaming
anybody, without cursing anybody, without comparing anything. Like an angel –
this is the greatness of our people. And that is why we believe what Jesus had
said: I was hungry – I was naked – I was homeless – I was unwanted, unloved,
uncared for – and you did it to me.
Tôi buộc phải xét lương tâm của tôi trước cô ấy, và tôi hỏi tôi sẽ
nói gì nếu tôi rơi vào hoàn cảnh của cô ta. Và câu trả lời của tôi là rất đơn
giản. Tôi sẽ cố gắng tạo một ít sự chú ý cho bản thân, tôi sẽ nói tôi đói, rằng
tôi đang chết, tôi lạnh, tôi đau đớn, hoặc gì đó, nhưng cô ấy đã cho tôi nhiều
hơn – cô ấy đã cho tôi tình yêu của sự biết ơn. Và cô ấy đã chết với một nụ
cười trên khuôn mặt. Khi một người mà chúng tôi đã gặp từ ống cống, bị dòi ăn
nửa người, và chúng tôi đưa người đó về nhà. Tôi đã sống như một con vật trên
đường phố, nhưng tôi sẽ chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc.
Và rất tuyệt vời để nhìn thấy sự vĩ đại của một người có thể nói như thế, người
có thể chết như thế mà không đổ lỗi cho bất cứ ai, mà không nguyền rủa bất cứ
ai, mà không so sánh bất cứ điều gì. Như một thiên thần – điều này là sự vĩ đại
của con người chúng ta. Và đó là lý do vì sao chúng ta tin tưởng những gì Giêsu
đã nói: Ta đói khát – Ta trần truồng – ta không nhà – Ta không ai muốn, không
được yêu, không được chăm sóc – và con đã chăm sóc ta.
I believe that we are
not real social workers. We may be doing social work in the eyes of the people,
but we are really contemplatives in the heart of the world. For we are touching
the Body of Christ 24 hours. We have 24 hours in this presence, and so you and
I. You too try to bring that presence of God in your family, for the family
that prays together stays together. And I think that we in our family don’t
need bombs and guns, to destroy to bring peace – just get together, love one
another, bring that peace, that joy, that strength of presence of each other in
the home. And we will be able to overcome all the evil that is in the world.
Tôi tin rằng chúng tôi không thực sự là những người cán bộ xã hội.
Có thể là chúng tôi làm công tác xã hội trong mắt của mọi người, nhưng chúng
tôi thực sự là những người mặc niệm trong trái tim của thế giới. Vì chúng tôi
tiếp xúc với Thân Thể Chúa 24 giờ. Chúng ta có 24 giờ trong sự hiện diện này,
và bạn và tôi cũng vậy. Bạn cũng cố gắng mang sự hiện diện của Chúa vào gia đình
bạn, cho gia đình cầu nguyện cùng nhau sống với nhau. Và tôi nghĩ rằng chúng ta
trong gia đình không cần bom và súng, phá hủy để mang lại hòa bình – chỉ cần
đến với nhau, yêu thương nhau, mang lại sự bình an, niềm vui , sức mạnh của sự
hiện diện với nhau trong nhà. Và chúng ta có thể vượt qua tất cả các điều ác
trên thế giới.
There is so much
suffering, so much hatred, so much misery, and we with our prayer, with our
sacrifice are beginning at home. Love begins at home, and it is not how much we
do, but how much love we put in the action that we do. It is to God Almighty –
how much we do it does not matter, because He is infinite, but how much love we
put in that action. How much we do to Him in the person that we are serving.
Có quá nhiều đau khổ, quá nhiều hận thù, quá nhiều khốn khổ, và
chúng ta, với lời cầu nguyện, với sự hy sinh, bắt đầu từ trong nhà. Tình yêu
bắt đầu trong nhà, và không phải là chúng ta yêu bao nhiêu, nhưng chúng ta
chuyển bao nhiêu tình yêu ra hành động trong các điều chúng ta làm . Đó là dâng
hiến cho Chúa Toàn Năng – chúng ta làm bao nhiêu không quan trọng, bởi vì Ngài
là vô hạn, nhưng bao nhiêu tình yêu chúng ta đặt vào trong hành động đó. Chúng
ta làm cho Chúa bao nhiêu qua những người chúng ta đang phục vu.
Some time ago in Calcutta
we had great difficulty in getting sugar, and I don’t know how the word got
around to the children, and a little boy of four years old, Hindu boy, went
home and told his parents: I will not eat sugar for three days, I will give my
sugar to Mother Teresa for her children. After three days his father and mother
brought him to our home. I had never met them before, and this little one could
scarcely pronounce my name, but he knew exactly what he had come to do. He knew
that he wanted to share his love.
Trong thời gian trước đây ở Calcutta, chúng tôi gặp khó khăn trong
việc mua đường, và tôi không biết tiếng đồn đến với những trẻ em cách nào, và
một cậu bé bốn tuổi, cậu bé Ấn Độ giáo, về nhà và nói với cha mẹ của mình: Con
sẽ không ăn đường trong ba ngày, con sẽ cho số đường của Con cho Mẹ Teresa cho
trẻ em của bà. Sau ba ngày, cha và mẹ của cậu bé đã đưa cậu đến nhà chúng tôi.
Tôi chưa bao giờ gặp họ trước đây, và cậu bé này khó rành cả phát âm tên của
tôi, nhưng cậu biết chính xác caajyu đã đến để làm gì. Cậu biết rằng cậu muốn
chia sẻ tình yêu của mình.
And this is why I have
received such a lot of love from you all. From the time that I have come here I
have simply been surrounded with love, and with real, real understanding love.
It could feel as if everyone in India, everyone in Africa is somebody very
special to you. And I felt quite at home I was telling Sister today. I feel in
the Convent with the Sisters as if I am in Calcutta with my own Sisters. So
completely at home here, right here.
Và đó là tại sao tôi đã nhận được rất nhiều tình yêu từ tất cả các
bạn. Từ lúc tôi đến đây, tôi đơn giản là được bao quanh với tình yêu, và với
tình yêu hiểu biết thực sự, thực sự. Có thể cảm nhận như thể mọi người ở Ấn Độ,
mọi người ở châu Phi là người rất đặc biệt đối với bạn. Và tôi cảm thấy là nhà,
tôi đã nói với Chị Em ngày hôm nay. Tôi cảm thấy trong Tu Viện với Chị Em như
thể tôi đang ở Calcutta với Chị Em của riêng tôi. Rất trọn vẹn là nhà ở đây,
ngay tại nơi đây.
And so here I am talking
with you – I want you to find the poor here, right in your own home first. And
begin love there. Be that good news to your own people. And find out about your
next-door neighbour – do you know who they are? I had the most extraordinary
experience with a Hindu family who had eight children. A gentleman came to our
house and said: Mother Teresa, there is a family with eight children, they had
not eaten for so long – do something. So I took some rice and I went there
immediately. And I saw the children – their eyes shinning with hunger – I don’t
know if you have ever seen hunger. But I have seen it very often. And she took
the rice, she divided the rice, and she went out. When she came back I asked
her – where did you go, what did you do? And she gave me a very simple answer:
They are hungry also. What struck me most was that she knew – and who are they,
a Muslim family – and she knew. I didn’t bring more rice that evening because I
wanted them to enjoy the joy of sharing. But there were those children,
radiating joy, sharing the joy with their mother because she had the love to
give. And you see this is where love begins – at home. And I want you – and I
am very grateful for what I have received. It has been a tremendous experience
and I go back to India – I will be back by next week, the 15th I hope – and I
will be able to bring your love.
Và như tôi đang nói với các bạn ở đây – Tôi muốn các bạn tìm thấy
những người nghèo ở đây, ngay trong nhà của chính bạn trước. Và bắt đầu tình
yêu ở đó. Hãy là tin mừng cho người của bạn. Và tìm hiểu về người hàng xóm cạnh
nhà bạn – bạn có biết họ là ai? Tôi có kinh nghiệm đặc biệt nhất với một gia
đình Ấn Giáo với tám người con. Một người đàn ông đến nhà chúng tôi và nói: Mẹ
Teresa, có một gia đình với tám đứa con, họ đã không ăn quá lâu – hãy làm điều
gì cho họ. Vì vậy, tôi lấy một số gạo và tôi đến đó ngay lập tức. Và tôi thấy
các trẻ em – đôi mắt của chúng chiếu sáng với cơn đói – Tôi không biết bạn có
bao giờ thấy sự đói. Nhưng tôi thấy rất thường xuyên. Và cô ta đã lấy gạo, cô
chia gạo ra, và cô đi ra ngoài. Khi cô ấy trở lại, tôi hỏi cô – cô đã đi đâu,
cô đã làm gì? Và cô ấy cho tôi một câu trả lời rất đơn giản: Họ cũng đang đói.
Điều gây ấn tượng với tôi nhất là cô biết – và họ là ai, một gia đình Hồi giáo
– và cô ấy biết. Tôi đã không đưa thêm gạo tối hôm đó vì tôi muốn họ tận hưởng
niềm vui của sự chia sẻ. Nhưng có những đứa trẻ, tỏa ra niềm vui, chia sẻ niềm
vui với mẹ mình vì cô đã có tình yêu để cho. Và bạn thấy đây là nơi mà tình yêu
bắt đầu – trong nhà. Và tôi muốn bạn – và tôi rất biết ơn những gì tôi đã nhận
được. Đây là một kinh nghiệm to lớn và tôi sẽ trở lại Ấn Độ – Tôi sẽ trở lại
vào tuần tới, ngày 15, tôi hy vọng – và tôi có thể mang theo tình yêu của các
bạn.
And I know well that you
have not given from your abundance, but you have given until it has hurt you.
Today the little children they have – I was so surprised – there is so much joy
for the children that are hungry. That the children like themselves will need
love and care and tenderness, like they get so much from their parents. So let
us thank God that we have had this opportunity to come to know each other, and
this knowledge of each other has brought us very close. And we will be able to
help not only the children of India and Africa, but will be able to help the
children of the whole world, because as you know our Sisters are all over the
world. And with this prize that I have received as a prize of peace, I am going
to try to make the home for many people that have no home. Because I believe
that love begins at home, and if we can create a home for the poor – I think
that more and more love will spread. And we will be able through this
understanding love to bring peace, be the good news to the poor. The poor in
our own family first, in our country and in the world.
Và tôi biết rõ rằng bạn đã không cho từ sự phong phú của bạn,
nhưng bạn cho đến khi nó làm tổn thương bạn. Hôm nay các em nhỏ có được – Tôi
rất ngạc nhiên khi có quá nhiều niềm vui cho trẻ em đang bị đói. Những đứa trẻ
như chúng sẽ cần tình yêu và sự chăm sóc dịu dàng, giống như chúng nhận được
rất nhiều từ cha mẹ của chúng. Vì vậy, chúng ta hãy cảm ơn Chúa vì cơ hội này
đến để chúng ta nhận biết nhau, và sự nhận biết nhau này đã xích chúng ta lại
gần nhau, rất gần. Và chúng ta có thể giúp đỡ không chỉ trẻ em Ấn Độ và châu
Phi, mà có thể giúp đỡ trẻ em trên toàn thế giới, bởi vì như bạn biết Chị Em
của chúng tôi có mặt khắp mọi nơi trên thế giới. Và với giải thưởng tôi đã nhận
được này là một giải thưởng của hòa bình, tôi sẽ cố gắng làm nhà cho nhiều
người không nhà. Bởi vì tôi tin rằng tình yêu bắt đầu trong nhà, và nếu chúng
ta có thể tạo ra một ngôi nhà cho người nghèo – Tôi nghĩ rằng tình yêu nhiều
hơn và nhiều hơn nữa sẽ lan rộng. Và chúng ta có thể, qua tình yêu hiểu biết
mang lại hòa bình này, là tin mừng cho người nghèo. Người nghèo trong chính gia
đình của chúng ta trước nhất, rồi trên đất nước ta, và trên thế giới.
To be able to do this,
our Sisters, our lives have to be woven with prayer. They have to be woven with
Christ to be able to understand, to be able to share. Because today there is so
much suffering – and I feel that the passion of Christ is being relived all
over again – are we there to share that passion, to share that suffering of
people. Around the world, not only in the poor countries, but I found the
poverty of the West so much more difficult to remove. When I pick up a person
from the street, hungry, I give him a plate of rice, a piece of bread, I have
satisfied. I have removed that hunger. But a person that is shut out, that
feels unwanted, unloved, terrified, the person that has been thrown out from
society – that poverty is so hurtable and so much, and I find that very
difficult. Our Sisters are working amongst that kind of people in the West. So
you must pray for us that we may be able to be that good news, but we cannot do
that without you, you have to do that here in your country. You must come to
know the poor, maybe our people here have material things, everything, but I
think that if we all look into our own homes, how difficult we find it
sometimes to smile at each other, and that the smile is the beginning of love.
Để có thể làm được điều này, Chị Em của chúng tôi, cuộc sống của
chúng tôi đã được đan dệt bằng lời cầu nguyện. Cuộc sống của chúng tôi phải
được đan dệt với Chúa để có thể hiểu, để có thể chia sẻ. Vì ngày nay có quá
nhiều đau khổ – và tôi cảm thấy rằng cuộc khổ nạn của Chúa đang được thực hiện
lại – chúng ta có ở đó để chia sẻ cuộc khổ nạn, để chia sẻ nỗi đau khổ đó của
con người. Vòng quanh thế giới, không chỉ tại các nước nghèo, nhưng tôi thấy
nghèo đói của phương Tây là khó khăn hơn để loại bỏ rất nhiều. Khi tôi thấy một
người ngoài đường, bị đói, tôi cho anh ta một dĩa cơm, một miếng bánh mì, tôi
hài lòng. Tôi đã xóa bỏ cơn đói đó. Tuy nhiên, một người bị loại bỏ, bị cảm thấy
không ai muốn, không được yêu, sợ hãi, người bị ném ra nghèo xã hội- cái nghèo
đó có thể là đau đớn rất nhiều, và tôi thấy điều đó rất khó khăn. Chị Em chúng
tôi đang làm việc với oại người đó ở phương Tây. Vì vậy, các bạn phải cầu
nguyện cho chúng tôi rằng chúng tôi có thể là tin mừng đó, nhưng chúng tôi
không thể làm điều đó mà không có các bạn, các bạn phải làm điều đó ở đây trên
đất nước các bạn. Các bạn phải biết người nghèo, có thể người của chúng ta ở
đây có những thứ vật chất, tất cả mọi thứ, nhưng tôi nghĩ rằng nếu tất cả chúng
ta nhìn vào căn nhà riêng của chúng ta, chúng ta thấy khó khăn như thế nào để
đôi khi mỉm cười với nhau, và nụ cười là sự bắt đầu của tình yêu.
And so let us always
meet each other with a smile, for the smile is the beginning of love, and once
we begin to love each other naturally we want to do something. So you pray for
our Sisters and for me and for our Brothers, and for our Co-Workers that are
around the world. That we may remain faithful to the gift of God, to love Him and
serve Him in the poor together with you. What we have done we should not have
been able to do if you did not share with your prayers, with your gifts, this
continual giving. But I don’t want you to give me from your abundance, I want
that you give me until it hurts.
Và vì vậy hãy để chúng ta luôn luôn gặp nhau với nụ cười, nụ cười
là khởi đầu của tình yêu, và một khi chúng ta bắt đầu yêu nhau, tự nhiên là
chúng ta muốn làm điều gì đó. Vì vậy, bạn cầu nguyện cho Chị Em của chúng tôi
và cho tôi và cho Anh Em của chúng tôi, và cho những người làm việc với chúng
tôi trên khắp thế giới. Rằng chúng ta có thể vẫn còn trung thành với món quà
của Chúa, yêu mến Ngài và phục vụ Ngài trong người nghèo cùng với các bạn.
Những gì chúng tôi đã làm chúng tôi không thể làm được nếu các bạn không chia
sẻ với những lời cầu nguyện của các bạn, với quà tặng của các bạn, quà tặng
liên tục này. Nhưng tôi không muốn bạn cho tôi từ sự phong phú của bạn, tôi
muốn bạn cho tôi cho đến khi bạn đau đớn.
The other day I received
15 dollars from a man who has been on his back for twenty years, and the only
part that he can move is his right hand. And the only companion that he enjoys
is smoking. And he said to me: I do not smoke for one week, and I send you this
money. It must have been a terrible sacrifice for him, but see how beautiful,
how he shared, and with that money I bought bread and I gave to those who are
hungry with a joy on both sides, he was giving and the poor were receiving.
This is something that you and I – it is a gift of God to us to be able to
share our love with others. And let it be as it was for Jesus. Let us love one
another as he loved us. Let us love Him with undivided love. And the joy of
loving Him and each other – let us give now – that Christmas is coming so close.
Let us keep that joy of loving Jesus in our hearts. And share that joy with all
that we come in touch with. And that radiating joy is real, for we have no
reason not to be happy because we have no Christ with us. Christ in our hearts,
Christ in the poor that we meet, Christ in the smile that we give and the smile
that we receive. Let us make that one point: That no child will be unwanted,
and also that we meet each other always with a smile, especially when it is
difficult to smile.
Ngày hôm nọ tôi nhận được 15 Mỹ kim từ một người đã nằm liệt gường
hai mươi năm, và phần duy nhất mà ông có thể cử động được là bàn tay phải của
mình. Và bạn đồng hành duy nhất mà ông có được là thuốc lá. Và ông nói với tôi:
tôi không hút thuốc trong một tuần, và tôi gửi cho Mẹ số tiền này. Nó phải là
một sự hy sinh khủng khiếp đối với ông ta, nhưng sự chia sẻ của ông đẹp biết
bao, và dùng số tiền để mua bánh mì và tôi cho những người đói với niềm vui của
cả hai bên, ông đã cho và người nghèo đã nhận. Đây là vài điều mà bạn và tôi –
một món quà của Chúa cho chúng ta để chúng ta có thể chia sẻ tình yêu của chúng
ta với người khác. Và hãy cho như đã cho Giêsu. Hãy yêu nhau như Ngài yêu chúng
ta. Hãy yêu Ngài với tình yêu không phân chia. Và niềm vui của lòng yêu thương
Ngài và với nhau -chúng ta hãy cho bây giờ – Giáng sinh sắp đến. Hãy giữ niềm
vui của tình yêu Chúa đó trong trái tim của chúng ta. Và chia sẻ niềm vui đó
với tất cả những ai chúng ta gặp gỡ. Và niềm vui tỏa sáng đó là sự thật, vì
chúng ta không có lý do gì để không được hạnh phúc bởi vì chúng ta không có
Chúa với chúng ta. Chúa trong trái tim ta, Chúa trong người nghèo mà chúng ta
gặp gỡ, Chúa trong nụ cười mà chúng ta cho và nụ cười mà chúng ta nhận. Hãy để
chúng ta thực hiện một điểm: Rằng không một trẻ thơ nào bị ruồng bỏ, và rằng
chúng ta luôn gặp nhau với một nụ cười, đặc biệt là khi khó có thể cười.
I never forget some time
ago about fourteen professors came from the United States from different
universities. And they came to Calcutta to our house. Then we were talking
about that they had been to the home for the dying. We have a home for the
dying in Calcutta, where we have picked up more than 36,000 people only from
the streets of Calcutta, and out of that big number more than 18,000 have died
a beautiful death. They have just gone home to God; and they came to our house
and we talked of love, of compassion, and then one of them asked me: Say,
Mother, please tell us something that we will remember, and I said to them:
Smile at each other, make time for each other in your family. Smile at each
other. And then another one asked me: Are you married, and I said: Yes, and I
find it sometimes very difficult to smile at Jesus because he can be very
demanding sometimes. This is really something true, and there is where love
comes – when it is demanding, and yet we can give it to Him with joy. Just as I
have said today, I have said that if I don’t go to Heaven for anything else I
will be going to Heaven for all the publicity because it has purified me and
sacrificed me and made me really ready to go to Heaven. I think that this is
something, that we must live life beautifully, we have Jesus with us and He
loves us. If we could only remember that God loves me, and I have an
opportunity to love others as he loves me, not in big things, but in small
things with great love, then Norway becomes a nest of love. And how beautiful
it will be that from here a centre for peace has been given. That from here the
joy of life of the unborn child comes out. If you become a burning light in the
world of peace, then really the Nobel Peace Prize is a gift of the Norwegian
people. God bless you!
Tôi không bao giờ quên mọt thời gian trước đây có khoảng mười bốn
vị giáo sư đến từ từ các trường đại học khác nhau ở Mỹ. Và họ tới Calcutta đến
nhà của chúng tôi. Sau đó, chúng tôi đã nói chuyện họ đã đến nhà của những
người sắp chết. Chúng tôi có một ngôi nhà cho người hấp hối ở Calcutta, nơi mà
chúng tôi đã nhận hơn 36.000 người từ các đường phố của Calcutta, và con số lớn
hơn 18.000 đã chết một cái chết rất đẹp. Họ mới vừa trở về nhà với Chúa; và họ
đến nhà chúng tôi và chúng tôi nói về tình yêu, về lòng từ bi, và sau đó một
trong số đó hỏi tôi: Này, Mẹ, xin cho chúng tôi biết vài điều mà chúng tôi sẽ
ghi nhớ, và tôi nói với họ: Hãy mỉm cười với nhau, dành thời gian cho nhau
trong gia đình của bạn. Mỉm cười với nhau. Và sau đó một người khác hỏi tôi:
Tôi có lập gia đình không, và tôi nói: Có, và tôi thấy đôi khi rất khó để mỉm
cười với Chúa Giêsu, vì Ngài có thể đòi hỏi rất nhiều. Điều này thực sự phần
nào là đúng, và nơi mà tình yêu đến – khi rất đòi hỏi, nhưng chúng ta có thể
cho Ngài với niềm vui. Như tôi đã nói ngày hôm nay, tôi nói rằng nếu tôi không
lên Thiên đường vì bất cứ điều gì khác thì tôi sẽ được lên thiên đường vì những
quảng bá tên tuổi vì chúng làm tôi tinh khiết và hy sinh tôi i và làm tôi thực
sự sẵn sàng để lên Thiên đường. Tôi nghĩ rằng đây là điều đáng nói, chúng ta
phải sống một cuộc sống thật đẹp, chúng ta có Chúa với chúng ta và Ngài yêu
thương chúng ta. Nếu chúng ta chỉ cần nhớ rằng Chúa yêu tôi, và tôi có một cơ
hội để yêu người khác như Ngài yêu tôi, không phải với những gì lớn lao, nhưng
trong những gì bé nhỏ với tình yêu vĩ đại, từ đó Na Uy trở thành một tổ ấm của
tình yêu. Và tuyệt vời làm sao khi từ nơi đây một trung tâm cho hòa bình đã
được trao tặng. Từ đây, niềm vui cuộc sống của trẻ thơ chưa sinh hiện diện. Nếu
các bạn trở thành một ngọn đèn cháy sáng trong thế giới hòa bình, thì thực sự
giải Nobel Hòa bình là một món quà của người dân Na Uy. Chúa ban phúc lành cho
bạn!
(Diệu Sương dịch)