The Olympic Torch

Ngọn đuốc Olympic



Since 776 B.C., when the Greek people held their first-ever Olympic Games, the Games were hosted every four years at the Olympia city.
Từ năm 776 trước công nguyên, khi người Hy Lạp tổ chức Kỳ Olympic đầu tiên, thế vận hội được tổ chức 4 năm một lần ở thành phố Olympia.
Back then, a long journey for the Olympic torch was made before the opening ceremony of each Olympic Games.
Trước đó, một cuộc diễu hành ngọn đuốc Olympic được tổ chức trước khi lễ khai mạc của thế vận hội bắt đầu.
The Greek people would light a cauldron of flames on the altar, a ritual devoted to Hera, the Greek Goddess of birth and marriage.
Người Hy Lạp sẽ châm vạc lửa trên bàn thờ, một nghi lễ đặc biệt cho nữ thần Hera, một vị thần Hy Lạp tượng trưng cho Hôn nhân và sự sinh sản.
The reintroduction of flame to the Olympics occurred at the Amsterdam 1928 Games, for which a cauldron was lit yet without a torch relay.
Việc mang ngọn lửa vào thế vận hội Olympic đã diễn ra ở thế vận hội năm 1928 ở Amsterdam, vạc lửa được thắp sáng nhưng không có rước đuốc.
The 1936 Berlin Summer Games held the first Olympic torch relay, which was not resumed in the Winter Olympics until in 1952.
Thế vận hội mùa hè ở Berlin năm 1936 đã tổ chức buổi rước đuốc đầu tiên, nhưng chỉ đến tận thế vận hội mùa đông năm 1952 mới được tổ chức tiếp.
However, in that year the torch was lit not in Olympia, Greece, but in Norway, which was considered as the birthplace of skiing.
Tuy nhiên, trong năm đó đuốc không được thắp ở Olympia, Hy Lạp, mà là ở Norway, nơi được coi như là điểm khai sinh môn trượt tuyết.
Until the Innsbruck 1964 Winter Olympics in Austria, the Olympic flame was reignited at Olympia.
Mãi đến thế vận hội mùa đông năm 1964 ở Innbruck, Australia, ngọn đuốc Olympic mới được đốt lại tại Olympia.
The torch is originally an abstract concept of a designer or groups of designers.
Ngọn đuốc là một khái niệm trừu tượng của một nhà thiết kế hoặc một nhóm nhà thiết kế.
A couple of design groups hand in their drafts to the Olympic Committee in the hope that they would get the chance to create the torch.
Vài nhóm nhà thiết kế nộp bản phác thảo của họ cho Hội đồng Olympic hy vọng rẳng họ sẽ có cơ hội tạo ra ngọn đuốc.
The group that wins the competition will come up with a design for a torch that has both aesthetic and practical value.
Nhóm thắng cuộc thi sẽ phải nghĩ ý tưởng thiết kế ngọn đuốc để làm sao vừa có giá trị thẩm mỹ vừa có giá trị thực tế.
After the torch is completed, it has to succeed in going through all sorts of severe weather conditions.
Sau khi ngọn đuốc hoàn thành, nó phải vượt qua tất cả các loại điểu kiện thời tiết khắc nghiệt.
The appearance of the modern Olympic torch is attributed to a Disney artist John Hench, who designed the torch for the 1960 Winter Olympics in Squaw Valley, California.
Sự xuất hiện của ngọn đuốc Olympic hiện đại đã đóng góp cho một họa sĩ Disney, John Hench. Ông đã thiết kế ngọn đuốc cho thế vận hội Olympic mùa đông năm 1960 ở thung lũng Squaw, California.
His design laid a solid foundation for all the torches in the future.
Thiết kế của ông đã đặt một nền móng vững chắc cho Tất cả ngọn đuốc trong tương lai.
The long trip to the Olympic area is not completed by one single torch, but by thousands of them, so the torch has to be replicated many times.
Cuộc hành trình dài tới khu vực Olympic không thể hoàn thành chỉ với một ngọn đuốc, mà bởi hàng nghìn ngọn, vì thế ngọn đuốc được làm thành rất nhiều bản sao.
Approximately 10,000 to 15,000 torches are built to fit thousands of runners who take the torches through every section of the Olympic relay.
Xấp xỉ 10000 đến 15000 ngọn đuốc được tạo ra để vừa với hàng nghìn người cầm đuốc chạy qua mỗi khu của khu vực rước đuốc Olympic.
Every single runner can choose to buy his or her torch as a treasurable souvenir when he or she finishes his or her part of the relay.
Sau khi hoàn thành phần biểu diễn của mình, mỗi người đều có thể chọn mua một cây đuốc cho riêng mình như là vật kỉ niệm đáng giá.
The first torch in the modern Olympics (the 1936 Berlin Games) was made from a slender steel rod with a circular platform at the top and a circular hole in the middle to jet flames.
Ngọn đuốc đầu tiên ở thế vận hội Olympic hiện đại ( Olympic Berlin năm 1936) được làm từ một cây thép thanh mảnh với nền vòng tròn ở đầu và lỗ tròn ở giữa tới chỗ châm lửa.
The name of the runner was also inscribed on the platform as a token of thanks.
Tên của người cầm đuốc cũng được khắc lên nên đế nhưu là một lời cảm ơn.
In the earlier days, torches used everything from gunpowder to olive oil as fuels.
Từ xa xưa, ngọn đuốc đã dùng mọi thứ để làm nhiên liệu, từ thuốc súng cho đến dầu olive.
Some torches adopted a combination of hexamine and naphthalene with a flammable fluid.
Một vài ngọn đuốc được điều chỉnh kết hợp hexamine và naphthalene với một chất lỏng cháy được.
However, these materials weren’t exactly the ideal fuel sources, and they could be quite hazardous sometimes.
Tuy nhiên, những nguyên liệu này không thực sự là một nguồn nhiên liệu lý tưởng, và thỉnh thoảng chúng còn khá nguy hiểm.
In the 1956 Olympics, the torch in the final relay was ignited by magnesium and aluminium, but some flaming pieces fell off and seared the runner’s arms.
Vào thế vận hội Olympic năm 1965, ngọn đuốc trong buổi rước cuối cùng được đốt cháy bởi Magie và Nhôm, nhưng vài ngọn lửa đã bị rơi xuống và làm bỏng tay người cầm.
To promote the security rate, liquid fuels made its first appearance at the 1972 Munich Games.
Để tăng tỷ lệ an toàn, nhiên liệu mỏng được lần đầu tiên xuất hiện ở Thế vận hội Munich năm 1972.
Since then, torches have been using fuels which are pressurised into the form of a liquid.
Kể từ đó, ngọn đuốc được sử dụng những nhiên liệu đã được điều áp thành dạng dung dịch lỏng.
When the fuels are burnt, they turn into gas to produce a flame. Liquid fuel becomes safer for the runner and can be stored in a light container.
Khi nhiên liệu cháy, chúng biến thành khí để tạo ra lửa. Chất lỏng trở nên an toàn hơn cho người cầm đuốc và có thể lưu trữ trong một thùng chứa nhẹ.
The torch at the 1996 Atlanta Summer Olympics is equipped with an aluminium base that accommodates a tiny fuel tank.
Ngọn đuốc ở Olympic mùa hè Atlanta năm 1996 được làm bằng nhôm với một bồn chứa nhiên liệu nhỏ.
As the fuel ascends through the modified handle, it is squeezed through a brass valve that has thousands of little openings.
Khi nhiên liệu đi ngược lên qua một cán có thể chỉnh được, nó bị ép qua một van đồng mà có hàng nghìn lỗ mở.
As the fuel passes through the tiny openings, it accumulates pressure.
Khi nhiên liệu đi qua những lỗ mở nhỏ, nó tắng dần áp suất.
Once it makes its way through the openings, the pressure decreases and the liquid becomes gas so it can bum up.
Khi nó tìm cách để đi qua những lỗ mở, áp suất giảm và chất lỏng biến thành khí nên có thể cháy.
The torch in 1996 was fuelled by propylene, a type of substance that could give out a bright flame.
Ngọn đuốc năm 1996 được đốt bằng Propylene, một dạng hợp chất có thể tạo ra ngọn lửa trắng.
However, since propylene was loaded with carbon, it would produce plenty of smoke which was detrimental to the environment.
Tuy nhiên, vì Propylene chứa rất nhiều Cacbon nên nó sinh ra rất nhiều khói, điều này có thể gây hại cho môi trường.
In 2000, the designers of the Sydney Olympic torch proposed a lighter and cheaper design, which was harmless to the environment.
Năm 2000, những nhà thiết kế của ngọn đuốc Olympic Sydney đề xuất một thiết kể vừa nhẹ vừa rẻ mà cũng vô hại cho môi trường.
For the fuel, they decided to go with a combination of 35 per cent propane (a gas that is used for cooking and heating) and 65 per cent butane (a gas that is obtained from petroleum), thus creating a powerful flame without generating much smoke.
Về nhiên liệu, họ quyết định chọn một hỗn hợp gồm 35% Propane (Khí được dùng trong nấu ăn và tạo nhiệt) và 65% Butane (Khí có được từ dầu hỏa), để tạo ra một ngọn lửa mạnh mà không sản sinh ra nhiều khói.
Both the 1996 and 2000 torches adopted a double flame burning system, enabling the flames to stay lit even in severe weather conditions
Cả ngọn đuốc vào năm 1996 và 2000 đều được chỉnh sửa thành hệ thống đốt lửa kép để ngọn lửa có thể giữ được ngay cả trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
The exterior flame burns at a slower rate and at a lower temperature.
Bề mặt ngọn lửa cháy ở tốc độ chậm hơn và ở nhiệt độ thấp hơn.
It can be perceived easily with its big orange flame, but it is unstable.
Có thể dễ dàng thấy ngọn lưả da cam lớn nhwung không ổn định.
On the other hand, the interior flame burns faster and hotter, generating a small blue flame with great stability, due to the internal site offering protection of it from the wind.
Trái lại, bên trong ngọn lửa còn cháy nhanh hơn và nóng hơn, sản sinh ra một vài ngọn lửa xanh rất ổn định, nhờ phía bên trong bảo vệ ngọn lửa khỏi gặp gió.
Accordingly, the interior flame would serve as a pilot light, which could relight the external flame if it should go out.
Theo đó, ngọn lửa bên trong sẽ là ánh sáng dẫn dắt, châm sáng lại ngọn lửa bên ngoài nếu nó có bị tắt.
As for the torch of 2002 Olympics in Salt Lake City, the top section was made of glass in which the flame burned, for the purpose of echoing the theme of ‘Light the Fire Within’ of that Olympics.
Nói đến ngọn đuốc Olympic năm 2002 ở thành phố Salt Lake, phần đỉnh được làm bằng thủy tinh, đó là nơi mà ngọn lửa cháy, chính là mục đích của việc lặp lại chủ đề "Ánh sáng ngọn lửa trong lòng" của Thế vận hội Olympic đó.
This torch was of great significance for the following designs of the torches.
Ngọn đuốc ấy có ý nghĩa quan trọng cho những thiết kế về sau này.

NGỌC THU

ARTCANDY SHOP NGỌC THU -     Trên   bước   đường   THÀNH   CÔNG , không   có   dấu   chân   của   những   kẻ   LƯỜI   BIẾNG . ...