Attitudes to language: CÁC QUAN ĐIỂM VỀ NGÔN NGỮ



 A

It is not easy to be systematic and objective about language study.
Không dễ dàng gì để có tính hệ thống và khách quan khi nghiên cứu về ngôn ngữ.

Popular linguistic debate regularly deteriorates into invective and polemic.
Các cuộc tranh luận về ngôn ngữ thường xuyên trở nên xấu đi và biến thành các cuộc tranh cãi.

B

Language belongs to everyone, so most people feel they have a right to hold an opinion about it.
Ngôn ngữ thuộc về tất cả mọi người, vì vậy hầu hết mọi người cảm thấy họ có quyền có ý kiến ​​về nó.

And when opinions differ, emotions can run high.
Và khi quan điểm ​​khác nhau, cảm xúc có thể trở nên cao trào.

Arguments can start as easily over minor points of usage as over major policies of linguistic education.
Các cuộc tranh luận có thể bắt đầu một cách dễ dàng từ các điểm nhỏ của cách sử dụng đến là các chính sách của giáo dục liên quan đến ngôn ngữ.

Language, moreover, is a very public behaviour, so it is easy for different usages to be noted and criticised.
Hơn nữa, ngôn ngữ là một hành vi rất công khai, vì vậy các cách sử dụng khác nhau rất dễ dàng bị ghi nhận và chỉ trích.


No part of society or social behaviour is exempt: linguistic factors influence how we judge personality, intelligence, social status, educational standards, job aptitude, and many other areas of identity and social survival.
Không có nhóm nào của xã hội hoặc hành vi xã hội nào được miễn trừ: các yếu tố ngôn ngữ ảnh hưởng đến cách chúng ta đánh giá tính cách, trí tuệ, địa vị xã hội, tiêu chuẩn giáo dục, năng lực làm việc và nhiều lĩnh vực khác về nhận dạng và sự tồn tại của xã hội.

As a result, it is easy to hurt, and to be hurt, when language use is unfeelingly attacked.
Do đó, thật dễ gây tổn thương ai đó và bị tổn thương, khi việc sử dụng ngôn ngữ bị công kích mà thiếu đi sự cảm thông.

C

In its most general sense, prescriptivism is the view that one variety of language has an inherently higher value than others, and that this ought to be imposed on the whole of the speech community.
Theo nghĩa chung nhất, thuyết quy nạp là quan điểm cho rằng một loại ngôn ngữ vốn đã có giá trị cao hơn những ngôn ngữ khác, và điều này nên được áp đặt trên toàn bộ cộng đồng sử dụng ngôn ngữ.

The view is propounded especially in relation to grammar and vocabulary, and frequently with reference to pronunciation.
Quan điểm được đề xuất đặc biệt liên quan đến ngữ pháp và từ vựng, và thường xuyên có liên quan đến cách phát âm.

The variety which is favoured, in this account, is usually a version of the 'standard' written language, especially as encountered in literature, or in the formal spoken language which most closely reflects this style.
Đây thường là phiên bản của ngôn ngữ viết 'chuẩn mực', đặc biệt thường bắt gặp trong văn học, hoặc trong ngôn ngữ nói trang trọng phản ánh rõ nhất phong cách này.

D

Adherents to this variety are said to speak or write 'correctly'; deviations from it are said to be 'incorrect! All the main languages have been studied prescriptively, especially in the 18th century approach to the writing of grammars and dictionaries.
Người theo chủ nghĩa này thường bị cho là nói hoặc viết 'một cách chính xác'; những gì sai lệch khỏi những chuẩn mực đó bị cho là 'sai! Tất cả các ngôn ngữ chính đã được nghiên cứu theo phong tục tập quán, đặc biệt trong cách tiếp cận ở thế kỷ 18 đối với việc viết văn phạm và từ điển.

The aims of these early grammarians were threefold: (a) they wanted to codify the principles of their languages, to show that there was a system beneath the apparent chaos of usage, (b) they wanted a means of settling disputes over usage, and (c) they wanted to point out what they felt to be common errors, in order to 'improve' the language.
Mục tiêu của những nhà ngữ pháp ban đầu bao gồm (a) họ muốn mã hóa các nguyên tắc  ngôn ngữ của họ, cho thấy có một hệ thống bên dưới sự hỗn loạn hiển nhiên của việc sử dụng, (b) họ muốn một phương tiện giải quyết các tranh chấp về sử dụng, và (C) họ muốn chỉ ra những gì họ cảm thấy là lỗi phổ biến, để "cải thiện" ngôn ngữ.

E

The authoritarian nature of the approach is best characterised by its reliance on ‘rules' of grammar.
Tính chất độc đoán của cách tiếp cận này đthể hiện rõ nhất qua tính phụ thuộc vào "các quy tắc" của ngữ pháp.

Some usages are 'prescribed,' to be learnt and followed accurately; others are 'proscribed,' to be avoided.
Một số cách sử dụng được 'quy định,' để được học và thực hiện một cách chính xác; những cách khác bị 'cấm đoán', để tránh không dung tới.

In this early period, there were no half-measures: usage was either right or wrong, and it was the task of the grammarian not simply to record alternatives, but to pronounce judgement upon them.
Trong giai đoạn đầu, không có biện pháp thỏa hiệp nào: cách sử dụng là đúng hay sai, và nó là nhiệm vụ của nhà ngữ pháp không chỉ đơn giản là để ghi lại các lựa chọn thay thế, mà còn để thông báo sự phán đoán dựa trên đó.

These attitudes are still with US, and they motivate a widespread concern that linguistic standards should be maintained.
Những thái độ này vẫn còn ở Hoa Kỳ, và họ khuyến khích mối quan tâm rộng rãi rằng các tiêu chuẩn ngôn ngữ cần phải được duy trì.

Nevertheless, there is an alternative point of view that is concerned less with standards than with the facts of linguistic usage.
Tuy nhiên, có một quan điểm thay thế khác ít quan tâm đến các tiêu chuẩn hơn so với thực tế sử dụng ngôn ngữ.

This approach is summarised in the statement that it is the task of the grammarian to describe, not prescribe to record the facts of linguistic diversity, and not to attempt the impossible tasks of evaluating language variation or halting language change.
Cách tiếp cận này được tóm tắt trong tuyên bố rằng nó là nhiệm vụ của nhà ngữ pháp là mô tả, chứ không phải ghi rõ các sự kiện về sự đa dạng ngôn ngữ, và không phải là cố gắng thực hiện các nhiệm vụ bất khả thi trong việc đánh giá sự biến đổi ngôn ngữ hoặc ngăn chặn sự thay đổi ngôn ngữ.

In the second half of the 18th century, we already find advocates of this view, such as Joseph Priestiey, whose Rudiments of English Grammar (1761) insists that 'the custom of speaking is the original and only just standard of any language! Linguistic issues, it is argued, cannot be solved by logic and legislation.
Trong nửa cuối của thế kỷ 18, chúng ta đã tìm thấy những người ủng hộ quan điểm này, như Joseph Priestiey, Nguyên lý cơ bản Ngữ pháp tiếng Anh (1761) của ông nhấn mạnh rằng "thói quen nói là nguyên bản và là chuẩn mực của bất kỳ ngôn ngữ nào! Các vấn đề ngôn ngữ học, được lập luận rằng, nó không thể giải quyết chỉ theo logic và luật pháp.

And this view has become the tenet of the modern linguistic approach to grammatical analysis.
Và quan điểm này đã trở thành nguyên lý của cách tiếp cận ngôn ngữ hiện đại đối với phân tích ngữ pháp.

F

In our own time, the opposition between 'descriptivists' and 'prescriptivists' has often become extreme, with both sides painting unreal pictures of the other.
Trong thời đại của chúng ta, sự đối lập giữa "những người theo chủ nghĩa mô tả" và "những người theo chủ nghĩa đề cao sự nguyên tắc" thường trở nên cực đoan, cả hai bên phản ánh hình ảnh không chân thực của đối phương.

Descriptive grammarians have been presented as people who do not care about standards, because of the way they see all forms of usage as equally valid.
Các nhà ngữ pháp mô tả đã được trình bày như những người không quan tâm đến các tiêu chuẩn, bởi vì cách mà họ nhìn nhận tất cả các hình thức sử dụng đều có giá trị như nhau.

Prescriptive grammarians have been presented as blind adherents to a historical tradition.
Những nhà ngữ pháp có quy tắc đã được trình bày như những người tuân theo truyền thống lịch sử một cách mù quáng.

The opposition has even been presented in quasi-political terms - of radical liberalism vs elitist conservatism.
Sự đối lập thậm chí còn được trình bày trong các thuật ngữ gần như mang tính chính trị - về chủ nghĩa tự do căn bản và chủ nghĩa bảo thủ tinh nhuệ.

NGỌC THU

ARTCANDY SHOP NGỌC THU -     Trên   bước   đường   THÀNH   CÔNG , không   có   dấu   chân   của   những   kẻ   LƯỜI   BIẾNG . ...