Cancers Eat a lot of Sugar
PET/CT Cancer Imaging: Cancers Eat a lot of Sugar
Johannes Czernin, MD
Chụp ảnh ung thư PET/CT: Các bệnh ung thư tiêu thụ rất nhiều đường
About the Lecture - Về bài giảng
There are many different ways to detect and diagnose cancer. PET imaging is one way to accomplish this. For PET imaging, patients are injected with a small amount of a radioactively marked sugar which, once in the body, reach those organs and tissues that consume a lot of sugar. Tumors consume up to 30 times more sugar then normal tissue. Since the injected sugar is radioactive we can detect its location in the body with a scanner, the PET scanner. The scan then provides us with the following information.
Có nhiều cách để phát hiện và chẩn đoán ung thư. Chụp PET là một cách thực hiện trọn vẹn nhiêm vụ đó. Để chụp PET, bệnh nhân được tiêm một lượng nhỏ đường được đánh dấu phóng xạ thứ mà, một khi ở trong cơ thể, đi tới các cơ quan nội tạng và các mô mà tiêu thụ đường đáng kể. Các khối u tiêu thụ đường lên đến gấp 30 lần so với mô thường. Khi đường được tiêm vào có tính phóng xạ, chúng ta có thể phát hiện vị trí của nó trong cơ thể bằng một máy quét, máy quét PET. Việc quét sau đó cung cấp cho chúng ta thông tin sau.
Is it cancer? What organs are involved? Has the cancer spread? Did the treatment work?
Nó có phải là ung thư không? Những cơ quan nào bị liên lụy? Ung thư đã lan ra chưa? Liệu cách điều trị đó có hiệu quả không?
These are questions that the oncologist and the patient and family wonder and hope for reliable and valid answers. One decade ago work began that resulted in what is now called the clinical PET/CT and it is the most exciting and novel imaging tool in oncology today. This tool has dramatically changed how these important questions are addressed. At UCLA over 7000 patients have been studied with the new technology and there is a diagnostic advantage in about 15% of patients with cancer over the previous PET scan alone. As a result more than 2000 PET/CT scanners have been installed worldwide. This presentation helps patients and their family members to understand how imaging techniques are an integral part of comprehensive cancer care. PET/CT imaging plays a vital role in determining stage, and effectiveness of treatments and there is clinical evidence that it is superior to PET or CT alone. Several types of cancer will be used to illustrate how PET/CT is used in diseases such as breast, lung cancer and lymphoma and sarcoma.
Đây là những câu hỏi mà các bác sĩ ung thư và bệnh nhân và gia đình tự hỏi và hy vọng có các câu trả lời có căn cứ và đáng tin cậy. Một thập kỷ trước, công việc đã bắt đầu dẫn đến cái mà giờ đây được gọi là PET / CT lâm sàng và đây là công cụ chụp ảnh thú vị và mới lạ nhất trong ung thư học ngày nay. Công cụ này đã thay đổi đáng kể cách các câu hỏi quan trọng này được giải quyết. Tại UCLA hơn 7000 bệnh nhân đã được nghiên cứu với công nghệ mới và có một lợi thế về chẩn đoán trong khoảng 15% bệnh nhân ung thư qua chỉ riêng lần quét PET trước đó. Kết quả là hơn 2000 máy quét PET / CT đã được lắp đặt trên toàn thế giới. Cách trình bày này giúp bệnh nhân và các thành viên gia đình của họ hiểu các kỹ thuật chụp ảnh là một phần không thể thiếu trong chăm sóc ung thư toàn diện. Chụp PET / CT đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định giai đoạn, và hiệu quả của phương pháp điều trị và có bằng chứng lâm sàng cao cấp hơn so với chỉ riêng PET hoặc CT. Nhiều loại ung thư sẽ được sử dụng để minh họa cách PET / CT được sử dụng trong các bệnh như ung thư vú, ung thư phổi và ung thư hạch bạch huyết và sarcoma (ung thư phần mềm).
Speaker - Diễn giả
Johannes Czernin, MD, Professor, Vice Chairman Molecular and Medical Pharmacology, Director of Nuclear Medicine at UCLA and Chief of the Ahmanson Biological Imaging Division at UCLA, received his degree from the University of Vienna, Austria Medical School. He began his work as a postdoctoral scholar at UCLA in 1989. Initially focusing on PET imaging of the heart, he turned his interest to cancer imaging with FDG-PET in 1997. He has established a large clinical research program addressing the usefulness of PET imaging for managing cancer patients.
Diễn giả
Johannes Czernin, Tiến sĩ, Giáo sư, Phó Chủ tịch Phân tử và Dược phẩm Y học, Giám đốc Y học hạt nhân tại UCLA và Trưởng bộ phận hình ảnh sinh học Ahmanson tại UCLA, đã nhận bằng của trường Đại học Vienna, Viện Y khoa Áo. Ông bắt đầu công việc của mình như là một học giả sau tiến sĩ tại UCLA vào năm 1989. Ban đầu tập trung vào chụp PET của tim, ông chuyển quan tâm của mình vào việc chụp ung thư với FDG-PET vào năm 1997. Ông đã thiết lập một chương trình nghiên cứu lâm sàng lớn giải quyết sự hữu ích của chụp PET trong quản lý bệnh nhân ung thư.
Lecture Summary
This is a summary of a lecture presented on May 14, 2013.
In 1971, President Nixon signed the National Cancer Act, a United States federal law aimed at strengthening the National Cancer Institute to more effectively carry out the national effort againstcancer. Along with Dr. Alva Letton, leader of the American Cancer Society, the President of the United Stated declared “War on Cancer.” When President Nixon left office, cancer was still a major threat to life. 42 years later, we are still at war with cancer.
Tóm tắt bài giảng
Đây là một bản tóm tắt của một bài giảng được trình bày vào ngày 14 tháng 5 năm 2013.
Năm 1971, Tổng thống Nixon đã ký Đạo luật Ung thư Quốc gia, một luật liên bang của Hoa Kỳ nhằm tăng cường cho Viện Ung thư Quốc gia để thực hiện hiệu quả hơn nỗ lực chống ung thư quốc gia. Cùng với Tiến sĩ Alva Letton, lãnh đạo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, Tổng thống Hoa Kỳ tuyên bố “Chiến tranh chống ung thư”. Khi Tổng thống Nixon rời nhiệm sở, ung thư vẫn là mối đe dọa lớn đối với cuộc sống. 42 năm sau, chúng ta vẫn đang có cuộc chiến tranh với căn bệnh ung thư
Costs and Cancer
Cancer care costs exceed $100 billion; overall health care costs are approximately $2 trillion per year. The United States spends approximately 15.2% of the GDP on health care, and this is expected to rise. The percentage of private expenditures toward health care has been decreasing, while the percentage of public expenditures has continued to rise. The incidence of the most common cancers has been rising since 1975; however, the mortality rates have been decreasing. When Medicare cost data for cancer were evaluated, the non-imaging cancer expenditures accounted for approximately 95.4% of the expenses while imaging only accounts for 4.6% of total costs. When further divided, 1% of costs are accounted for by PET imaging and 3.6% are attributed to other imaging techniques. Medicare reimburses PET/CT at $1250 per scan.
Chi phí và ung thư
Chi phí chăm sóc ung thư là hơn 100 tỷ đô lạ; tổng chi phí chăm sóc sức khỏe là khoảng 2 nghìn tỷ đô la mỗi năm. Hoa Kỳ chi khoảng 15,2% GDP vào chăm sóc sức khỏe, và điều này dự kiến sẽ tăng lên. Tỷ lệ chi tiêu cá nhân đối với chăm sóc sức khỏe đã giảm, trong khi tỷ lệ chi tiêu của cộng đồng vẫn tiếp tục tăng. Tỷ lệ mắc các bệnh ung thư phổ biến nhất đã tăng từ năm 1975; tuy nhiên, tỷ lệ tử vong đã giảm. Đánh giá dữ liệu về chi phí cho ung thư của trung tâm chăm sóc Y khoa, chi phí cho ung thư không dùng đến hình ảnh chiếm khoảng 95,4% ,trong khi hình ảnh chỉ chiếm 4,6% tổng chi phí. Khi chia thêm nữa, 1% chi phí được tính bằng hình ảnh PET và 3,6% được quy cho các kỹ thuật hình ảnh khác. Trung tâm chăm sóc Y khoa hoàn trả PET / CT với giá 1250 đô la mỗi lần quét.
Imaging Tests in Cancer
There are three key imaging modalities: MRI, CT, and PET.
Khám bệnh bằng cách chụp ảnh trong Ung thư
Có ba phương thức chụp ảnh mấu chốt: MRI, CT và PET
Magnetic Resonance Imaging (MRI) creates a powerful magnetic field through which images are created by turning this field on and off. It is best for imaging brain, bone marrow, soft tissues such as muscles, liver, and pancreas, and is used for a variety of cancers. It is a precise imaging technique and is exquisitely accurate. The whole body can be done in approximately 25 minutes. An MRI scanner is very powerful. Because of the intense magnetic field, it is not safe to have any metals in the room with an MRI scanner. Metallic prostheses are usually safe. MRI scanners are shaped like tubes or a tunnel; because of this, some patients experience claustrophobia and may need an anti-anxiety medication while having MRI scans. There is also noise associated with these scans, which can sometimes be bothersome to patients, but earplugs will make a difference.
Chụp ảnh cộng hưởng từ (MRI) tạo ra từ trường mạnh thông qua đó các hình ảnh được tạo ra bằng cách bật và tắt trường này. Đây là phương thức tốt nhất cho chụp ảnh não, tủy xương, mô mềm như các cơ, gan, và tuyến tụy, và được sử dụng cho một loạt các bệnh ung thư. Đó là một kỹ thuật chụp ảnh chính xác và chính xác một cách tinh xảo. Toàn bộ cơ thể được chụp trong khoảng 25 phút. Máy quét MRI rất mạnh. Do từ trường cường độ cao, không an toàn khi có bất kỳ kim loại nào trong phòng có máy quét MRI. Bộ phận giả kim loại thường an toàn. Máy quét MRI có hình dạng như ống hoặc đường hầm; bởi vì điều này, một số bệnh nhân tiền sử có chứng sợ không gian hẹp có thể cần một loại thuốc chống lo âu trong khi chụp MRI. Ngoài ra còn có tiếng ồn liên quan đến những lần quét này, đôi khi có thể gây khó chịu cho bệnh nhân, nhưng các nút bị lỗ tai sẽ tạo ra sự khác biệt.
Computer [Assisted] Tomography (CAT or CT) can scan the whole body in 10 seconds. It uses x-rays to produce images of the body. Radiation doses are higher than from one x-ray as many x-rays are taken to form a complete picture. CT scans are good at showing anatomical structures.
There has been much discussion about the exposure that an individual receives from these types of scans. Many patients become worried about this because they may not have a perspective that helps them see the risks and benefits in an understandable way. Overall, CT scans are valuable and provide relatively low doses of radiation without significant consequences. A Gray (Gy) is a method of quantifying exposure/absorption of radiation. In general, most people are exposed to 2.4 mGy (milligray) per year from the background radiation in the environment. A CT scan can be 10-20 mGy, which is 10-20 one thousandth of a Gy. Radiation therapy on the other hand, uses 45-60 Gy, which is thousands of times higher than the radiation used in one CT scan. There has been ongoing research into the question of whether CT imaging is dangerous. There have been multiple studies published recently, and the conclusion is, “Predictions of hypothetical cancer incidence and deaths in patient populations exposed to such low doses [in imaging] are highly speculative and should be discouraged.” However, despite the scientific evidence, information abounds on the Internet that may lead people to be fearful of imaging. It is not uncommon to hear people use the phrase it is a “one in a million chance.” To provide another perspective, the table below provides a listing of some activities that increase the annual probability of death by “one in a million.” This was published in Imaging Physics in 2011.
Chụp cắt lớp vi tính (CLVT=CT) quét toàn bộ cơ thể trong 10 giây. Nó sử dụng tia X để tạo ra hình ảnh của cơ thể. Các liều bức xạ cao hơn một tia X vì nhiều tia X được dùng để tạo thành một hình ảnh hoàn chỉnh. Chụp cắt lớp vi tính hiển thị tốt các cấu trúc giải phẫu.
Đã có nhiều cuộc thảo luận về phơi nhiễm mà một người nhận được từ các loại máy quét này. Nhiều bệnh nhân trở nên lo lắng về điều này bởi vì họ không tìm thấy một quan điểm nào giúp họ hiểu được những rủi ro và lợi ích của nó. Nhìn chung, máy CLVT rất có giá trị và cung cấp liều bức xạ tương đối thấp mà không có hậu quả đáng kể. Một Grey (Gy) là phương pháp định lượng phơi nhiễm / hấp thụ bức xạ. Nói chung, hầu hết mọi người phơi nhiễm với 2,4 mGy (milligray) mỗi năm từ bức xạ nền trong môi trường. Chụp CLVT có thể từ 10-20 mGy, tức là 10-20 phần nghìn Gy. Xạ trị, mặt khác, sử dụng 45-60 Gy, cao gấp hàng nghìn lần bức xạ được sử dụng trong một lần chụp CLVT. Đã và đang có nhiều nghiên cứu cho câu hỏi liệu CLVT có nguy hiểm hay không. Nhiều nghiên cứu được công bố gần đây, và kết luận là, "Dự đoán về giả thiết tỷ lệ mắc và tử vong ung thư ở những quần thể bệnh nhân tiếp xúc với liều thấp [trong chuẩn đoán hình ảnh] chỉ mang tính lý thuyết và không nên được khuyến khích." Tuy nhiên, bất chấp các bằng chứng khoa học, thông tin rất nhiều trên Internet có thể khiến mọi người sợ chuẩn đoán hình ảnh. Nó không phải là không phổ biến để nghe mọi người sử dụng cụm từ đó là một "một triệu một cơ hội." Để cung cấp một quan điểm khác, bảng dưới đây cung cấp một danh sách của một số hoạt động làm tăng xác suất tử vong hàng năm bởi "một trong một triệu." Điều này đã được xuất bản trong “Vật lý hình ảnh” vào năm 2011.
Positron emission tomography (PET) is a scanning technique that tracks the uptake of sugar throughout healthy and abnormal tissues of the entire body. The PET scan is a method that enables us to see function rather than anatomy. PET scans identify areas in the body that are absorbing sugar. As a result, the brain and heart show up on PET scans because these are highly active tissues in the body that absorb sugar as fuel. To determine which tissues are absorbing high quantities of sugar, prior to your scan your medical health practitioner needs to inject into a vein a small amount of sugar that has a small amount of radioactivity attached to it. The radioactive tracer is called FDG, which stands for 2-[f-18] fluoro-2-deoxy-d-glucose. After the sugar has traveled through your body and been absorbed, PET identifies those areas that have high uptake of sugar, other than those already known to be high utilizers of sugar, e.g., the brain; these areas can indicate the presence of cancer.
Chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) là một kỹ thuật quét theo dõi sự hấp thụ đường khắp các mô lành và bất thường của toàn bộ cơ thể. Quét PET là một phương pháp cho phép chúng ta thấy chức năng hơn là giải phẫu. Máy PET xác định khu vực trong cơ thể hấp thụ đường. Kết quả là, bộ não và trái tim hiển thị trên máy PET vì đây là những mô hoạt động cao trong cơ thể do hấp thụ đường như nhiên liệu. Để xác định mô nào đang hấp thụ lượng đường cao, trước khi chụp, bác sĩ tiêm vào tĩnh mạch một lượng nhỏ đường có gắn lượng nhỏ phóng xạ . Chất đánh dấu phóng xạ được gọi là FDG, viết tắt của 2- [f-18] fluoro-2-deoxy-d-glucose. Sau khi đường đã đi qua cơ thể của bạn và được hấp thu, PET xác định những khu vực có sự hấp thu đường cao, ngoài những khu vực đã được biết đến là sử dụng đường cao, ví dụ: bộ não; những khu vực này có thể chỉ ra sự hiện diện của ung thư. The high utilization of sugar in cancer is based on an important discovery made in 1921 by Otto Warburg when he studied the metabolism of cancerous cells. He found that the respiration of oxygen in normal body cells is replaced in cancerous cells by a fermentation of sugar. Normal body cells meet their energy needs by respiration of oxygen, whereas cancer cells meet their energy needs in large part by fermentation. From the standpoint of the physics and chemistry of life, this difference between normal and cancer cells is hugely significant. Oxygen gas is the source of energy in plants and animals; in cancer cells that process is replaced by an energy yielding reaction of the lowest living forms, namely the fermentation of glucose. In the 1970s the Brookhaven group synthesized18F-FDG the radioisotope that can carry sugar. In 1975 the first PET scanner was developed by Michael E. Phelps, PhD, Chair of the Department of Molecular and Medical Pharmacology at the David Geffen School of Medicine at UCLA. The PET scanner allowed us to carry out the first clinical studies in neurology, cardiology, and oncology by following the uptake of the radioactive isotope used in PET imaging to determine how the body’s organs use sugar. The research continued to progress, scanners became better and ultimately, imaging studies were conducted. PET scans are incredibly useful because cancer cells, by nature, are rapidly dividing. After 90 hours of cell division, one cancer cell can become 32,768 thousand cells. A one centimeter tumor contains 10 billion cancer cells. This rapid cell division requires a large amount of fuel, and that fuel is the sugar in our body. However, don’t suddenly run out and throw out all your foods containing sugar or stop eating fruit. Keep reading because I will be specifically addressing this topic and your concern further along! Việc sử dụng đường nhiều trong ung thư được dựa trên một khám phá quan trọng được thực hiện vào năm 1921 bởi Otto Warburg khi ông nghiên cứu sự trao đổi chất của các tế bào ung thư. Ông phát hiện ra rằng sự hô hấp oxy trong các tế bào cơ thể bình thường được thay thế trong các tế bào ung thư bằng cách lên men đường. Các tế bào cơ thể bình thường đáp ứng nhu cầu năng lượng của chúng bằng cách hô hấp oxy, trong khi các tế bào ung thư đáp ứng nhu cầu năng lượng của chúng một phần lớn bằng quá trình lên men. Từ quan điểm của vật lý và hóa học của sự sống, sự khác biệt này giữa các tế bào bình thường và ung thư là cực kỳ quan trọng. Khí oxy là nguồn năng lượng trong thực vật và động vật; trong các tế bào ung thư quá trình này được thay bằng một phản ứng năng lượng khác trong hình thức sống thấp nhất, cụ thể là sự lên men glucose. Trong thập niên 1970, nhóm Brookhaven đã tổng hợp đồng vị phóng xạ 18F-FDG có thể mang đường. Năm 1975, máy quét PET đầu tiên được phát triển bởi Tiến sĩ Michael E. Phelps, Trưởng khoa Dược và Phân tử tại Trường Y David Geffen tại UCLA. Máy quét PET cho phép thực hiện các nghiên cứu lâm sàng đầu tiên về thần kinh học, tim mạch và ung thư bằng cách theo dõi đồng vị phóng xạ được sử dụng trong chụp PET để xác định cách cơ quan của cơ thể sử dụng đường. Nghiên cứu tiếp tục tiến triến, máy quét đã trở nên tốt hơn và cuối cùng, các nghiên cứu hình ảnh đã được thực hiện. Quét PET là vô cùng hữu ích vì các tế bào ung thư, theo tự nhiên,phân chia rất nhanh. Sau 90 giờ phân bào, một tế bào ung thư có thể trở thành 32,768 nghìn tế bào. Một khối u một centimet chứa 10 tỷ tế bào ung thư. Sự phân bào nhanh này đòi hỏi một lượng lớn nhiên liệu, và nhiên liệu đó là đường trong cơ thể chúng ta. Tuy nhiên, đừng đột nhiên chạy ra ngoài và ném tất cả thức ăn có chứa đường hoặc ngừng ăn trái cây. Hãy tiếp tục đọc vì tôi sẽ giải quyết cụ thể chủ đề này và mối quan tâm của bạn sẽ tiếp tục theo sau! During the 1980s and 1990s the quality of the PET scans improved and scans became more useful and specific. FDG, the sugar-based isotope, decays quickly therefore linear accelerators are needed on site to produce FDG. Since the 1980s there has been a huge increase in the number of centers that use PET devices. Trong suốt những năm 80 và 90, chất lượng của quét PET đã cải thiện và việc quét càng ngày càng hữu ích và rõ ràng hơn. FDG, đồng phân của đường, phân rã nhanh chóng vì thế cần có các máy gia tốc tuyến tính để sản xuất FDG. Từ những năm 80, các trung tâm sử dụng máy PET gia tăng nhanh chóng One of the great advances of imaging technology was the ability to integrate CT and PET scanners into one machine and to superimpose images one upon the other. CT scans show anatomical structures but are not as effective at determining attributes of the structures. The PET scan indicates whether there is strong uptake of sugar and is, thus, useful in diagnosing the presence of most cancers. The PET/CT scanner produces an image of the anatomy fused with the functional images of the use of sugar by cells. Một trong những tiến bộ lớn của công nghệ chụp ảnh là khả năng tích hợp các máy quét CLVT và PET thành một máy và khả năng chồng các hình ảnh lên nhau. CLVT cho thấy cấu trúc giải phẫu nhưng không hiệu quả trong việc xác định các đặc tính của cấu trúc. Máy PET chỉ ra liệu có sự hấp thu đường mạnh và do đó, có ích trong chẩn đoán sự hiện diện của hầu hết các bệnh ung thư hay không. Máy quét PET / CT tạo ra một hình ảnh của giải phẫu hợp nhất với các hình ảnh chức năng của việc sử dụng đường của các tế bào. PET/CT imaging helps to determine where a primary tumor is located. For example, it can help to determine whether cancer can be removed by surgery or whether the lesions are outside the scope of a surgical intervention. It is also useful in determining if cancer has recurred, making PET/CT imaging highly significant in making treatment decisions. It has become even more important as a tool in evaluating whether a treatment protocol is working. As a result, patients can stop ineffective treatments more quickly and move to something more effective for their cancer. This is a critical decision for patients because it helps avoid unnecessary exposure to toxicities of ineffective treatments, it saves money by preventing unnecessary, often highly expensive, treatments, and most of all, allows your oncologist to switch you to a more effective treatment in a timely manner. Chụp PET / CT giúp xác định vị trí của một khối u nguyên thủy. Ví dụ, nó có thể giúp xác định xem ung thư có thể được loại bỏ bằng phẫu thuật hay không hoặc các tổn thương nằm ngoài phạm vi can thiệp phẫu thuật. Nó cũng hữu ích trong việc xác định nếu ung thư đã tái phát, việc chụp ảnh PET / CT có ý nghĩa lớn trong việc đưa ra quyết định điều trị. Nó thậm chí còn trở nên quan trọng hơn như một công cụ đánh giá xem phác đồ điều trị có hiệu quả hay không. Kết quả là, bệnh nhân có thể ngừng các phương pháp điều trị không hiệu quả nhanh hơn và di chuyển sang điều trị hiệu quả hơn cho bệnh ung thư của họ. Đây là một quyết định quan trọng cho bệnh nhân bởi vì nó giúp tránh tiếp xúc không cần thiết với độc tính của phương pháp điều trị không hiệu quả, nó tiết kiệm tiền bằng cách tránh điều trị không cần thiết, mà thường đắt tiền, và hầu hết tất cả, cho phép bác sĩ chuyên khoa ung thư chuyển bạn sang điều trị hiệu quả hơn một cách kịp thời. The National Oncology PET registry (NOPR) is collaboration between Medicare and a group of researchers. This collaborative effort helped to evaluate impact of PET/CT on the management of cancer patients. Multiple studies have been published between 2007 through 2011 showing that cancer staging and restaging has been greatly affected by PET in most forms of cancer. Because of this research, PET/CT is now covered by insurances for most forms of cancer. Primary prostate cancer is one of the few not covered but we are now allowed to monitor with PET therapeutic responses of prostate cancer that have spread. There are some exceptions for breast and melanoma. Several other studies have shown that the inclusion of PET in the management of cancer patients can result in improved survival. The first set of images show a normal CT scan, a normal PET scan and a normal PET/CT combined. The second set of images, an abnormal CT scan, an abnormal PET and the fused PET/CT, shows that the abnormal areas of anatomy on the lung and adrenal gland are functioning abnormally because of the high uptake of the sugar. Cơ quan đăng ký PET của Cục Ung thư Quốc gia (NOPR) là sự hợp tác giữa Chăm sóc y tế và một nhóm các nhà nghiên cứu. Nỗ lực hợp tác này đã giúp đánh giá tác động của PET / CT đối với việc quản lý bệnh nhân ung thư. Nhiều nghiên cứu đã được công bố từ năm 2007 đến năm 2011 cho thấy rằng việc phát triển các giai đoạn và tái phát của ung thư bị tác động lớn bởi PET trong phần lớn các dạng ung thư. Do nghiên cứu này, PET / CT hiện nay được trả bảo hiểm bởi các loại bảo hiểm cho hầu hết các dạng ung thư. Ung thư tuyến tiền liệt nguyên bản là một trong số ít không được bảo hiểm nhưng chúng ta giờ đây đã cho phép theo dõi với các phản hồi điều trị PET của ung thư tuyến tiền liệt bệnh mà đang lan tràn. Có một số ngoại lệ đối với ung thư vú và ung thư da (hắc tố). Một số nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng dùng PET trong việc quản lý bệnh nhân ung thư có thể dẫn đến việc sự sống được cải thiện. Tập hợp hình ảnh đầu tiên cho thấy chụp CT bình thường, chụp PET bình thường và kết hợp PET / CT bình thường. Tập ảnh thứ hai, chụp CT bất thường, PET bất thường và PET / CT hợp nhất, cho thấy các vùng giải phẫu bất thường trên phổi và tuyến thượng thận hoạt động bất thường do sự hấp thu đường cao. Preparation for PET/CT Scan
It is important that you prepare appropriately for a PET/CT scan. Patients often receive intravenous contrast injection for the CT portion of the PET/CT scan; therefore, prior to getting a PET/CT scan, blood creatinine levels must be monitored via a blood test prior to the procedure to assess the function of your kidneys.
Patients are asked to fast for 4-6 hours prior to the scan but are allowed to drink fluids. You should not exercise on the day of or the day before a PET scan because muscles use a lot of sugar and exercising could cause a more diffuse uptake of the radioactive tracer into the muscles instead of the potential tumor sites, creating images that are more difficult to interpret. Regular medications should be taken on scan day including medications for controlling diabetes. It is important to stay warm, during the period that the tracer is in the body, because there is something called “brown fat” that is characteristic in infants, young adults and some older adults. When cold, this “brown fat” will take up sugar, leading to a scan that is difficult to read. Do not worry if the scanner room is cool. Blankets are usually given, but by the time you are in the scanner, the FDG has already distributed throughout the body. Wear warm clothing when you come to the clinic for imaging to keep your body warm and comfortable. This will also prevent the brown fat from using a lot of sugar.
Chuẩn bị chụp PET / CT
Chuẩn bị cẩn thận để chụp PET / CT rất quan trọng. Bệnh nhân thường được tiêm tĩnh mạch tương phản cho phần chụp CLVT của PET / CT ; do đó, trước khi chụp PET / CT, nồng độ creatinine trong máu phải được theo dõi thông qua xét nghiệm máu trước khi thực hiện thủ thuật để đánh giá chức năng thận của bạn.
Bệnh nhân được yêu cầu ăn nhẹ trước khi chụp 4-6 giờ nhưng được phép uống chất lỏng. Bạn không nên tập thể dục vào ngày hay ngày trước khi chụp PET vì cơ bắp sử dụng nhiều đường và tập thể dục có thể gây ra sự hấp thu khuếch tán phóng xạ vào cơ bắp thay vì các vị trí khối u tiềm ẩn, tạo ra những hình ảnh khó giải thích. Các loại thuốc thông thường nên được thực hiện vào ngày chụp bao gồm các loại thuốc bệnh tiểu đường. Giữ ấm là quan trọng, trong giai đoạn mà chất đánh dấu nằm trong cơ thể, bởi vì có một thứ gọi là “chất béo nâu” là đặc trưng ở trẻ sơ sinh, thanh niên và một số người lớn tuổi. Khi lạnh, "chất béo màu nâu" này sẽ giữ lại đường, dẫn tới khó khăn khi đọc hình ảnh. Đừng lo lắng nếu phòng chụp lạnh, chăn thường được dùng, nhưng đến khi bạn ở trong máy quét, FDG đã phân phối khắp cơ thể. Mặc quần áo ấm khi bạn đến phòng khám chẩn đoán hình ảnh để giữ cho cơ thể bạn ấm áp và thoải mái. Điều này cũng sẽ tránh các chất béo nâu sử dụng đường
The Actual Scan Procedure
Patients who have never had a PET/CT scan wonder what the steps are. Overall, it should take about 30 minutes for the actual scan. But since the FDG is injected 1 hour before we start imaging you should reserve a total of close to 2 hours for your visit. Sometimes, we will run a little late because another patient needed more time for imaging.
The basic steps from arrival at the clinic are
The report will be available within 24 hours although most of the time it will be available for your treating physician within a few hours.
Thủ tục chụp thực tế
Những bệnh nhân chưa bao giờ chụp PET / CT tự hỏi các bước là gì. Nhìn chung, sẽ mất khoảng 30 phút cho việc chụp thực sự. Nhưng kể từ tiêm FDG 1h chúng tôi sẽ bắt đầu chụp, bạn nên dành tổng cộng gần 2 giờ cho việc này. Đôi khi, chúng tôi sẽ chạy muộn một chút vì một bệnh nhân khác cần thêm thời gian để chụp
Các bước cơ bản khi đến bệnh viện là
• Bạn sẽ được chào đón và được trao đổi các thông tin cơ bản
• Bạn sẽ được chuyển vào phòng tiêm
• Bạn sẽ được tiêm FDG
• Bạn có thể uống chất phản quang, mà chúng tôi sử dụng để có được một hình ảnh CLVT ruột tốt hơn (có thể bạn sẽ không thích mùi vị của chất phản quang nhưng bạn sẽ dễ dàng chịu đựng được nó).
• Bạn sẽ được đặt trong ghế tựa thoải mái trong khoảng một giờ và nên giữ ấm. Nếu bạn không thấy ấm, hãy yêu cầu chăn.
• Bạn được đưa đến máy quét (bên cạnh)
• Bạn được đặt trên giường máy chụp (phòng khá lạnh)
• Tiêm chất cản quang cho phần chụp CLVT
• Hình ảnh CLVT được ghi lại (dưới một phút)
• Các hình ảnh PET được ghi lại (khoảng 25 phút)
Kết quả có trong vòng 24 giờ mặc dù hầu hết thời gian sẽ có dành cho bác sĩ điều trị của bạn trong vòng vài giờ.
Concerns and Questions after the Scan
There are very few side effects from these scans. A PET scan may create pain at the site of the IV injection, and very rarely, an infection. About 5% of patients have claustrophobia in the scanner. For patients who are anxious about the scans, benzodiazepines such as valium are very effective anti-anxiety medications that can be taken beforehand. Discuss this with your doctor before the scan. If you do take valium you will need to be driven to and from the clinic by a relative or a friend. The radiation exposure from the scan is low and is not dangerous if the scans are used as currently indicated. For the CT component, the IV contrast can cause allergic responses, and patients with kidney problems may need to be careful about the contrast. Oral contrast can cause abdominal discomfort in some patients. After the scan you are not radioactive, and there is no danger to you or to others around you. You can be in contact with children, pregnant women or anyone else. If you drink fluids it will wash out the radioactive sugar tracer more quickly. You are allowed to eat whatever you want after the scan is over.
Các quan tâm và câu hỏi sau khi chụp
Có rất ít tác dụng phụ từ những lần chụp này. Chụp PET có thể gây đau tại chỗ tiêm tĩnh mạch và rất hiếm khi bị nhiễm trùng. Khoảng 5% bệnh nhân có chứng sợ không gian hẹp trong máy chụp. Đối với những bệnh nhân lo lắng về việc chụp, việc dùng trước các thuốc an thần benzodiazepin như valim rất có tác dụng. Thảo luận điều này với bác sĩ của bạn trước khi chụp. Nếu bạn dùng valium, khi đến phòng khám bạn sẽ cần được người thân hoặc bạn đưa đến và đưa về. Phơi nhiễm bức xạ từ quá trình chụp là thấp và không nguy hiểm nếu chụp như hiện nay. Đối với phần chụp CLVT,chất cản quan tĩnh mạch gây phản ứng dị ứng và cẩn thận với bệnh nhân có vấn đề về thận khi dùng chất cản quang. Chất cản quang đường uống có thể gây khó chịu ở bụng ở một số bệnh nhân. Sau khi chụp bạn sẽ không nhiễm phóng xạ, và không có nguy hiểm cho bạn hoặc cho người khác xung quanh bạn. Bạn có thể tiếp xúc với trẻ em, phụ nữ có thai hoặc bất kỳ ai khác. Nếu bạn uống chất lỏng, nó sẽ rửa sạch chất kiểm tra phóng xạ gắn nhanh hơn. Bạn được phép ăn bất cứ thứ gì bạn muốn sau khi quá trình chụp kết thúc.
The Internet, CAM and Myths about Sugar and Cancer
It must be noted that while Warburg’s finding about the use of sugar for cancers was an important scientific finding. However, postings on the Internet have created misleading and inaccurate conclusions about the relationship between cancer and sugar intake. Warburg’s findings did not state that eating sugar leads to cancer. It is important to understand more about this in order to avoid “diets and cures” that are misrepresented on the Internet.
The human body relies on glucose. Certain organs, especially the brain and the heart, two of our most vital and hard-working body parts, consume extremely high amounts of glucose because they require high amounts of energy. For example, if the body does not have enough glucose, it converts other things, such as fatty acids and proteins into glucose. It is true, however, that in comparison to most cells, cancer does have a sweet tooth. Cancer cells consume about 20-30 times more sugar than normal cells because cancers are rapidly dividing cells; in order to divide rapidly, they need energy. Glucose (sugar) is a rapid energy source, so while cancer cells do eat proteins and fatty acids as well, they rely on glucose. Though “technically correct,” the concept that sugar feeds cancer is also misleading because sugar feeds every cell in our bodies. Even if you could cut every bit of sugar out of your diet, your body would make sugar from other sources. All cells—healthy and cancerous—need sugar to grow. It helps to remember that there is nothing particular about sugar that “feeds” cancer cells any more than sugar feeds all of the cells in our bodies. The body makes its own sugar. It is impossible to starve a cancer by creating a diet that is absent of sugar.
Internet, CAM và giai thoại về đường và ung thư
Cần lưu ý phát hiện của Warburg về việc sử dụng đường cho bệnh ung thư là phát hiện khoa học quan trọng. Tuy nhiên, các bài đăng trên Internet đã tạo ra những kết luận sai lệch và không chính xác về mối quan hệ giữa ung thư và lượng đường tiêu thụ. Những phát hiện của Warburg không nói rằng việc ăn đường dẫn đến ung thư. Hiểu được điều này là quan trọng để tránh “chế độ ăn uống và phương pháp chữa trị” được trình bày sai trên Internet.
Cơ thể con người sống dựa vào glucose. Một số cơ quan, đặc biệt là não và tim, hai bộ phận cơ thể quan trọng và chăm chỉ nhất của chúng ta, tiêu thụ lượng đường rất cao vì chúng đòi hỏi lượng năng lượng cao. Ví dụ, nếu cơ thể không có đủ glucose, nó sẽ chuyển đổi những thứ khác, chẳng hạn như axit béo và protein thành glucose. Điều đó đúng, tuy nhiên, so với hầu hết các tế bào, ung thư không có răng ngọt. Các tế bào ung thư tiêu thụ đường nhiều hơn khoảng 20-30 lần so với các tế bào bình thường vì tế bào ung thư phân chia rất nhanh; để phân chia nhanh chóng, cần năng lượng. Glucose (đường) là nguồn năng lượng mau lẹ, vì vậy trong khi các tế bào ung thư dùng protein và axit béo, chúng cũng dựa vào glucose. Mặc dù "chính xác về kỹ thuật", khái niệm rằng đường nuôi bệnh ung thư cũng gây hiểu nhầm vì đường nuôi tất cả các tế bào trong cơ thể chúng ta. Ngay cả khi bạn có thể cắt giảm lượng đường trong chế độ ăn, cơ thể bạn sẽ tạo ra đường từ các nguồn khác. Tất cả các tế bào — khỏe mạnh và ung thư — cần đường để phát triển. Nên nhớ rằng không có gì cụ thể về đường nuôi tế bào ung thư nhiều hơn đường nuôi tất cả các tế bào trong cơ thể. Cơ thể tự tạo ra đường. Không thể bỏ đói bệnh ung thư bằng cách tạo ra một chế độ ăn không có đường
The Internet is full of articles, misperceptions, and claims that focus on the relationship between cancer cells and sugar. Unfortunately, anyone can post anything on the Internet, and there is no filter for the facts. Just because something is in print or on the Internet does not mean that the information is accurate or meaningful. It is important to turn to real science to understand what we know. An excellent source for cancer information is the NCI website, www.nci.gov. Many patients want to understand what they can do to help themselves in addition to traditional cancer treatments. It is important to understand that there are no miraculous cures for cancer to be found on the Internet—if there were any miracle cures the scientific community would be using them. Conventional medicine still has the best treatments available for the reduction of cancer growth. However, complementary and alternative medicine practices (CAM) can be important and supportive adjunctive modalities. It is important to use the same scrutiny that one demands of traditional treatments to examine the value of these other approaches. You carefully should read the literature being published. There are important available data on the Internet related to diet, acupuncture, and massage in relation to cancer prevention, symptom management, and well-being; there are, however, equal amounts of inappropriate and misleading data and suggestions! There are important facts that every patient should investigate, e.g., acupuncture appears to be beneficial in reducing treatment-related symptoms; shark cartilage is very good for sharks but does not appear to improve cancer outcomes in humans; massage may benefit patients with cancer related fatigue; Laetrile (laevo-mandelonitrile-beta-glucuronoside) is ineffective against cancer at best and may be potentially harmful; and garlic may not lower bad cholesterol as originally thought nor does it appear to have an impact on colo-rectal cancer. These are just some of the medical miracles, or myths, which you can find on the Internet. Some claims are, however, significant. Low-fat diets may have a role in lowering the likelihood of cancer recurrence for women with breast cancer, but the mechanisms are not yet clear. Losing weight by cutting calories can reduce the risk of many health conditions such as cancer, diabetes, heart disease, and stroke. It is important to talk to reliable health care providers about the many messages out there to determine the best individualized plan for you. Be careful with the information found on websites. Internet có nhiều các bài báo, nhận thức sai, và tuyên bố nói về vào mối quan hệ giữa các tế bào ung thư và đường. Thật không may, bất cứ ai cũng có thể đăng bất kỳ thứ gì lên Internet và không có một sự sàng lọc nào. Chỉ vì một cái gì đó được in hoặc trên Internet không có nghĩa là thông tin là chính xác hoặc có ý nghĩa. Chuyển nó sang khoa học thực sự để hiểu những gì chúng ta biết là quan trọng. Một nguồn tốt về thông tin ung thư là trang mạng của NCI, www.nci.gov. Nhiều bệnh nhân muốn hiểu họ có thể làm được gì để giúp mình ngoài việc điều trị ung thư truyền thống. Điều quan trọng là phải hiểu rằng không có phương pháp chữa trị thần kỳ nào cho ung thư được tìm thấy trên Internet - nếu có bất kỳ phép lạ nào chữa trị cộng đồng khoa học sẽ sử dụng chúng. Y học thông thường vẫn có những phương pháp điều trị tốt nhất có sẵn để giảm sự phát triển ung thư. Tuy nhiên, việc thực hành y học bổ sung và thay thế (CAM) có thể là các phương thức thêm vào rất quan trọng và mang tính hỗ trợ. Điều quan trọng là sử dụng cùng một sự xem xét kỹ lưỡng mà một người yêu cầu về các phương pháp điều trị truyền thống để xem xét giá trị của các phương pháp tiếp cận khác này . Bạn cũng nên cẩn thận khi đọc các tài liệu được xuất bản. Có những dữ liệu quan trọng có sẵn trên Internet liên quan đến chế độ ăn uống, châm cứu và mát xa liên quan đến phòng chống ung thư, quản lý triệu chứng và chất lượng sống tốt; tuy nhiên, có một lượng lớn các dữ liệu và khuyến nghị không phù hợp và gây hiểu lầm! Nhiều thực tế quan trọng mà mọi bệnh nhân nên điều tra, ví dụ: châm cứu dường như có lợi trong việc giảm các triệu chứng liên quan đến điều trị; sụn cá mập là rất tốt cho cá mập nhưng cải thiện hậu quả ung thư ở người; mát xa có thể có lợi cho bệnh nhân bị mệt mỏi liên quan đến ung thư; Laetrile (laevo-mandelonitrile-beta-glucuronoside) không hiệu quả chống ung thư tốt nhất và có thể có hại; và tỏi có thể không làm giảm cholesterol xấu như quan điểm ban đầu và nó dường như không có tác động đến ung thư trực tràng. Đây chỉ là một số phép lạ y học, hoặc thần thoại, mà bạn có thể tìm thấy trên Internet. Tuy nhiên, các một số tuyên bố trên là đáng kể. Chế độ ăn ít chất béo có thể có vai trò trong việc giảm khả năng tái phát ung thư ở phụ nữ bị ung thư vú, nhưng cơ chế chưa rõ ràng. Giảm cân bằng cách giảm lượng calo có thể giảm nguy cơ mắc nhiều chứng bệnh như ung thư, tiểu đường, bệnh tim và đột quỵ. Điều quan trọng là phải nói chuyện với các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe đáng tin cậy về nhiều thông điệp trên mạng để xác định kế hoạch tốt nhân cho cá nhân của bạn. Hãy cẩn thận với thông tin tìm thấy trên trang web. Most important, chemotherapy frequently causes lack of appetite and end-stage cancer patients lose weight. Adequate intake of calories, vitamins, and other nutrients are important and may be important factors in quality of life. Consultation with a highly qualified and educated health specialist in nutrition may be helpful to your overall wellness. Quan trọng nhất, hóa trị thường xuyên gây ra giảm cảm giác thèm ăn và bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối thường giảm cân. Lượng calo đầy đủ, vitamin và các chất dinh dưỡng khác rất quan trọng và có thể là các yếu tố quan trọng đảm bảo chất lượng cuộc sống. Tham khảo với một chuyên gia y tế có trình độ chuyên môn cao về dinh dưỡng là hữu ích cho tổng quan sức khỏe của bạn.
Conclusions
Kết luận
• PET / CT sử dụng mối quan hệ giữa các khối u và sự tiêu thụ đường - tế bào ung thư ăn nhiều đường hơn so với các tế bào bình thường.
• Không có bằng chứng cho thấy ăn ít đường ngăn ngừa hoặc thay đổi quá trình ung thư
• Trên web nhiều thông tin nhưng dễ gây hiểu lầm
• Chỉ xem các trang web đáng tin cậy như NCI.
•PET / CT là một công cụ quan trọng để chẩn đoán và lập kế hoạch điều trị. Nó giúp đánh giá xem ung thư có đáp ứng tốt với điều trị hay không; thường không có phương thức nào để tìm ra điều này.
Translated by Trương Hà
|