WHAT EDUCATED WOMEN CAN DO - ĐIỀU NHỮNG PHỤ NỮ CÓ GIÁO DỤC CÓ THỂ LÀM




by Indira Gandhi, Prime Minister of India

(Indira Gandhi, Thủ tướng Ấn Độ)


Address at the golden jubilee celebrations of the Indraprastha College for Women in Delhi, India on November 23, 1974.
Bài trình bày tại lễ chào mừng 50 năm thành lập ở Trường Đại Học Nữ Indraprastha ở Delhi, Ấn Độ ngày 23 tháng 11 năm 1974.
An ancient Sanskrit saying says, woman is the home and the home is the basis of society. It is as we build our homes that we can build our country. If the home is inadequate–either inadequate in material goods and necessities or inadequate in the sort of friendly, loving atmosphere that every child needs to grow and develop–then that country cannot have harmony and no country which does not have harmony can grow in any direction at all.
Ngạn ngữ Sanskrit cổ nói rằng, phụ nữ là gia đình và gia đình là nền tảng của xã hội. Khi chúng ta xây dựng gia đình của mình, chúng ta xây dựng được đất nước của chúng ta. Nếu gia đình không hoàn chỉnh – hoặc thiếu thốn về vật chất và những điều kiện thiết yếu, hoặc thiếu thốn không khí thân thiết yêu thương mà mọi đứa trẻ đều cần để trưởng thành và phát triển – thì đất nước đó không thể nào có sự hòa hợp, và không có một đất nước nào không có hòa hợp lại có thể phát triển theo được một hướng nào.
That is why women’s education is almost more important than the education of boys and men. We–and by “we” I do not mean only we in India but all the world–have neglected women education. It is fairly recent. Of course, not to you but when I was a child, the story of early days of women’s education in England, for instance, was very current. Everybody remembered what had happened in the early days.
Đó là lý do tại sao giáo dục cho phụ nữ gần như quan trọng hơn giáo dục cho phái nam. Chúng ta – khi sử dụng từ “chúng ta” tôi không có ý chỉ nói đến Ấn Độ mà là cả thế giới này – đã thờ ơ với giáo dục cho phụ nữ. Giáo dục cho phụ nữ chỉ là chuyện mới gần đây. Dĩ nhiên, không phải với các bạn nhưng khi tôi còn là 1 đứa trẻ, câu chuyện về những ngày đầu tiên của giáo dục cho phụ nữ ở nước Anh, chẳng hạn, đã là chuyện rất thời sự. Tất cả mọi người đều nhớ về những gì đã xảy ra trong những ngày đầu tiên đó.
I remember what used to happen here. I still remember the days when living in old Delhi even as a small child of seven or eight. I had to go ou t in a doli if I left the house. We just did not walk. Girls did not walk in the streets. First, you had your sari with which you covered your head, then you had another shawl or something with which you covered your hand and all the body, then you had a white shawl, with which every thing was covered again although your face was open fortunately. Then you were i n the doli, which again was covered by another cloth. And this was in a family or community which did not observe purdah of any kind at all. In fact, all our social functions always were mixed functions but this was the atmosphere of the city and of the country.
Tôi nhớ những gì đã từng xảy ra ở đây. Tôi vẫn nhớ những ngày sống ở Delhi ngày xưa ngay cả khi tôi chỉ mới là trẻ con 7-8 tuổi. Nếu tôi ra khỏi nhà tôi phải ngồi trong kiệu. Chúng tôi không đi bộ. Con gái không được đi bộ ra đường. Đầu tiên, bạn có sari để quấn quanh đầu, sau đó bạn có một khăn quàng hay cái gì đó để che tay và toàn cơ thể, rồi bạn có một khăn choàng trắng để che hết mọi thứ lần nữa dù mặt của bạn được many mắn để hở. Sau đó, bạn phải ngồi trong kiệu, và kiệu 1 lần nữa lại được phủ bằng một tấm vải. Và đấy là ở trong một gia đình hay cộng đồng không có theo bất kì loại purdah [luật che giấu phụ nữ] nào. Trên thực tế, tất cả các phong tục xã hội của chúng tôi luôn luôn là các phong tục hòa trộn nhưng đó là không khí chung ở thành phố và của cả nước.
Now, we have got education and there is a debate all over the country whether this education is adequate to the needs of society or the needs of our young people. I am one of those who always believe that education needs a thorough overhauling. But at the same time, I think that everything in our education is not bad, that even the present education has produced very fine men and women, specially scientists and experts in different fields, who are in great demand all over the world and even in the most affluent countries. Many of our young people leave us and go abroad because they get higher salaries, they get better conditions of work.
Ngày nay chúng ta được giáo dục và trên khắp cả nước có cuộc tranh luận về nền giáo dục này có đầy đủ cho nhu cầu xã hội hay nhu cầu của những người trẻ của chúng ta không. Tôi là một trong những người luôn luôn tin rằng giáo dục cần một cuộc cải cách toàn diện. Nhưng cùng lúc, tôi nghĩ rằng mọi thứ trong nền giáo dục của chúng ta không tệ, rằng thậm chí nền giáo dục hiện tại đã sản sinh ra những người đàn ông và phụ nữ rất tài giỏi, đặc biệt là những nhà khoa học và chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác nhau, những người được cần rất nhiều trên toàn thế giới và ngay cả ở những quốc gia hùng mạnh nhất. Rất nhiều thanh niên của chúng ta đã rời bỏ chúng ta và đi ra nước ngoài vì ở đó họ được nhận lương cao hơn, họ được có điều kiện làm việc tốt hơn.
But it is not all a one-sided business because there are many who are persuaded and cajoled to go even when they are reluctant. We know of first class students, especially in medicine or nuclear energy for instance, they are approached long before they have passed out and offered all kinds of inducements to go out. Now, that shows that people do consider that they have a standard of knowledge and capability which will be useful any where in the world.
Nhưng không phải tất cả đều là giao dịch một chiều bởi vì có rất nhiều người được tiếp cận và bị thuyết phục ra đi thậm chí cả khi họ ngần ngại không muốn đi. Chúng ta biết đến những học sinh hạng ưu, đặc biệt trong ngành y khoa hay năng lượng nguyên tử là một ví dụ, họ được tiếp cận rất lâu trước khi họ ra trường và họ được đề nghị đủ loại lý do để đi ra nước ngoài. Vâng, điều đó cho thấy người ta thực sự nhìn nhận rằng người ta có một chuẩn kiến thức và khả năng hữu ích ở bất cứ nơi nào trên thế giới.
So, that is why I say that there is something worthwhile. It also shows that our own ancient philosophy has taught us that nothing in life is entirely bad or entirely good. Everything is somewhat of a mixture and it depends on us and our capability how we can extract the good, how we can make use of what is around us. There are people who through observation can learn from anything that is around them. There are others who can be surrounded by the most fascinating people, the most wonderful books, and other things and who yet remain quite closed in and they are unable to take anything from this wealth around them.
Vì vậy, đó là lý do tại sao tôi nói rằng vẫn có những điều rất xứng đáng. Nó cũng cho thấy điều mà các nhà triết gia cổ của chúng ta đã dạy chúng ta, đó là không có thứ gì trên cuộc đời này hoàn toàn xấu hay hoàn toàn tốt. Mọi thứ đều phần nào đó là một hỗn hợp và tùy thuộc vào chúng ta, vào khả năng của chúng ta để lấy ra được điều tốt, để sử dụng những gì quanh chúng ta. Có những người thông qua quan sát có thể học từ bất kỳ thứ gì xung quanh họ. Có những người khác có thể được vây quanh bởi những nhân vật hấp dẫn nhất, những quyển sách tuyệt vời vô cùng và nhiều thứ khác nữa mà vẫn chỉ tiếp tục khép kín và không thể nào lấy được một điều nào từ những thứ dồi dào xung quanh họ.
Our country is a very rich country. It is rich in culture, it is rich in many old traditions–old and even modern tradition. Of course, it has a lot of bad things too and some of the bad things are in the society–superstition, which has grown over the years and which sometimes clouds over the shining brightness of ancient thought and values, eternal values. Then, of course, there is the physical poverty of large numbers of our people. That is something which is ugly and that hampers the growth of millions of young boys and girls. Now, all these bad things we have to fight against and that is what we are doing since Independence.
Đất nước chúng ta là một đất nước rất giàu có. Chúng ta giàu về văn hóa, giàu về nhiều truyền thống cổ – cổ và ngay cả truyền thống hiện đại. Dĩ nhiên, đất nước này cũng có những điều tồi tệ và một số điều tồi tệ nằm ngay trong xã hội chúng ta – mê tín, cái đã bám rễ và phát triển qua hàng bao nhiêu năm và thỉnh thoảng che mờ cả sự sáng suốt của những tư tưởng và giá trị cổ truyền, những giá trị bất tử. Và, dĩ nhiên, có sự đói nghèo vật chất của đại đa số quần chúng. Đó là điều xấu xí và cản trở sự phát triển của hàng triệu thiếu niên nam nữ. Ngày nay, đấu tranh chống lại tất cả những điều tồi tệ này là điều chúng ta phải làm và chúng ta đang làm kể từ ngày Độc Lập.
But, we must not allow this dark side of the picture which, by the way, exists in every country in the world. Even the most rich country in the world has its dark side, but usually other people hide their dark sides and they try to project the shining side or the side of achievement. Here in India, we seem to want to project the worst side of society. Before anybody does anything, he has to have, of course, knowledge and capability, but along with it he has to have a certain amount of pride in what he or she is doing. He has to have self-confidence in his own ability. If your teacher tells, “You cannot do this,” even if you are a very bright student I think every time you will find, it will be more and more difficult for you to do it. But if your teacher encourages saying, “Go along you have done very good work, now try a little harder,” then you will try a little harder and you will be able to do it. And it is the same with societies and with countries.
Nhưng, bên cạnh đó, chúng ta không được cho phép mặt tối của bức tranh, cũng nên nói là mặt tối này tồn tại ở mọi quốc gia trên thế giới. Ngay cả đất nước giàu có nhất trên thế giới cũng có mặt trái của nó, nhưng thông thường người ta che giấu đi những mặt tối và trưng bày mặt sáng hoặc là mặt thành công. Ở đây, tại Ấn Độ, chúng ta có vẻ như muốn trưng bày mặt tồi nhất cuả xã hội. Trước khi một người nào làm một điều gì đó, anh ta phải có, dĩ nhiên, kiến thức và khả năng, nhưng bên cạnh đó, anh phải có một mức độ tự hào nào đó trong việc anh ta làm. Anh ta phải tự tin vào khả năng của anh ta. Nếu giáo viên của bạn nói rằng, “Bạn không thể làm điều này”, thì ngay cả khi bạn là một học sinh rất thông minh, tôi nghĩ chắc chắn bạn sẽ thấy càng ngày càng khó khăn để làm được điều đó. Nhưng nếu giáo viên của bạn nói và khuyến khích bạn, “Hãy làm đi, bạn đã làm rất tốt, bây giờ hãy cố gắng thêm chút nữa”, bạn sẽ cố gắng thêm nữa, và bạn sẽ có khả năng làm được việc đó. Điều này cũng đúng với xã hội và đất nước.
This country, India, has had remarkable achievements to its credit, of course in ancient times, but even in modern times, I think there are a few modern stories, success stories, which are as fascinating as the success story of our country. It is true that we have not banished poverty, we have not banished many of our social ills, but if you compare us to what we were just about 27 years ago, I think that you will not find a single other country that has been able to achieve so much under the most difficult circumstances.
Đất nước Ấn Độ này là đất nước đạt những thành công vượt bậc, dĩ nhiên trong các thời cổ đại, nhưng ngay cả trong thời hiện đại. Tôi nghĩ có một vài câu chuyện hiện đại, những câu chuyện thành công rất hấp dẫn như là những câu chuyện thành công của đất nước chúng ta. Đúng là chúng ta không chưa loại bỏ được nghèo đó, chúng ta chưa loại bỏ được những tệ nạn xã hội, nhưng nếu so sánh chúng ta với chính chúng ta 27 năm về trước, tôi nghĩ rằng bạn sẽ không tìm thấy được một đất nước nào có thể đạt được nhiều thành công như vậy dưới những điều kiện cực kỳ khó khăn như đất nước chúng ta.
Today, we are passing through specially dark days. But these are not dark days for India alone. Except for the countries which call themselves socialist and about which we do not really know very much, every other country has the same sort of economic problems, which we have. Only a few countries, which have very small populations, have no unemployment. Otherwise, the rich countries also today have unemployment. They have shortages of essential articles. They have shortages even of food.
Hiện nay, chúng ta đang trải qua những ngày đặc biệt u ám. Nhưng đây là những ngày u ám không riêng gì cho Ấn Độ. Ngoại trừ những quốc gia tự gọi họ là những nước xã hội chủ nghĩa và chúng ta không biết gì nhiều về họ, tất cả các nước khác đều có những vấn đề kinh tế tương tự như chúng ta gặp phải. Chỉ có 1 vài nước, với dân số ít ỏi là không có người thất nghiệp. Trong khi ngược lại, các nước giàu có ngày nay đều có người thất nghiệp. Và các nước này thiếu rất nhiều nguồn tài nguyên thiết yếu. Họ thậm chí thiếu cả thức ăn.
I do not know how many of you know that the countries of Western Europe and Japan import 41 per cent of their food needs, whereas India imports just under two per cent. Yet, somehow we ourselves project an image that India is out with the begging bowl. And naturally when we ourselves say it, other people will say it much louder and much stronger. It is true, of course, that our two per cent is pretty big because we are a very big country and we have a far bigger population than almost any country in the world with the exception of China. We have to see and you, the educated women, because it is great privilege for you to have higher education, you have to try and see our problems in the perspective of what has happened here in this country and what is happening all over the world.
Tôi không biết có bao nhiêu người trong các bạn biết rằng các nước Tây Âu và Nhật Bản nhập khẩu 41% nhu cầu lương thực của họ, trái lại Ấn Độ chỉ nhập khẩu chưa đến 2%. Tuy nhiên, bằng cách nào đó chúng ta luôn mường tượng ra hình ảnh Ấn Độ với cái chén ăn xin. Và tự nhiên, khi chính chúng ta nói ra điều đó, những người khác sẽ nói to hơn và mạnh hơn. Là sự thật, dĩ nhiên, 2% là con số lớn vì chúng ta là một nước rất lớn và dân số trong nước cao hơn rất nhiều so với hầu hết các nước khác trên thế giới, ngoại trừ Trung Quốc. Chúng ta phải nhìn thấy được, và các bạn, những người phụ nữ có giáo dục, bởi vì đó là một ưu quyền rất lớn khi bạn được tiếp nhận giáo dục đại học, bạn phải cố gắng nhìn các vấn đề của chúng ta dưới góc độ điều gì đang xảy ra trong đất nước này và điều gì đang xảy ra trên toàn thế giới.
There is today great admiration for certain things that have happened in other countries where the society is quite differently formed, where no dissent is allowed. The same people who admire that system or the achievements of that system are the ones who say there is dictatorship here even though, I think, nobody has yet been able to point out to me which country has more freedom of expression or action. So, something is said and a lot of people without thinking keep on repeating it with additions until an entirely distorted picture of the country and of our people is presented.
Hiện tại có sự ngưỡng mộ lớn lao đối với một số điều xảy ra ở các nước khác, nơi mà ở đó xã hội được hình thành khác biệt hoàn toàn với chúng ta, nơi mà không có bất đồng chính kiến nào được cho phép. Cũng chính những người ngưỡng mộ hệ thống đó và những thành công trong hệ thống đó là những người nói rằng ở đất nước này có chế độ chuyên chính độc tài, mặc dù theo tôi nghĩ không ai có thể chỉ ra cho tôi thấy đất nước nào có nhiều quyền tự do công luận hay hành động hơn đất nước chúng ta. Nên, có những điều được tuyên bố ra, và rất nhiều người cứ lặp đi lặp lại không cần suy nghĩ mà còn thêm thắt cho đến khi trưng ra một hình ảnh đất nước và con người chúng ta hết sức méo mó.
As I said, we do have many shortcomings, whether it is the government, whether it is the society. Some are due to our traditions because, as I said, not all tradition is good. And one of the biggest responsibilities of the educated women today is how to synthesise what has been valuable and timeless in our ancient traditions with what is good and valuable in modern thought. All that is modern is not good just as all that is old is neither all good nor all bad. We have to decide, not once and for all but almost every week, every month what is coming out that is good and useful to our country and what of the old we can keep and enshrine in our society. To be modern, most people think that it is something of a manner of dress or a manner of speaking or certain habits and customs, but that is not really being modern. It is a very superficial part of modernity.
Như tôi đã nói, chúng ta có những điểm yếu kém, có thể là ở nhà nước, có thể là ở trong xã hội. Một số do bởi những truyền thống của chúng ta bởi vì, như tôi nói, không phải mọi truyền thống đều tốt. Và một trong những trách nhiệm lớn nhất của phụ nữ có giáo dục ngày nay là làm sao để phối hợp những gì có giá trị và vượt thời gian trong các truyền thống cổ truyền với những tư tưởng mới tốt và có giá trị. Không phải tất cả những gì hiện đại đều tốt cũng như không phải tất cả những gì cũ kỹ đều hoặc chỉ tốt hoặc chỉ xấu. Chúng ta phải quyết định, không phải một lần cho vĩnh cữu, nhưng gần như mỗi tuần, mỗi tháng rằng những gì vừa ra là tốt và hữu ích cho đất nước chúng ta và những gì ccuar truyền thống cũ chúng ta cần giữ lại và tôn thờ cho xã hội chúng ta. Để là người hiện đại, đa phần mọi người nghĩ rằng thứ gì đó thể hiện phong cách ăn mặc hoặc phong cách nói, hoặc một số thói quen và hành vi nhất định, nhưng nó không thực sự như vậy. Đây chỉ là phần rất hời hợt của khái niệm hiện đại.
For instance, when I cut my hair, it was because of the sort of life that I was leading. We were all in the movement. You simply could not have long hair and go in the villages and wash it every day. So, when you lead a life, a particular kind of life, your clothes, your everything has to fit into that life if you are to be efficient. If you have to go in the villages and you have to bother whether your clothes are going to be dirty, then you cannot be a good worker. You have to forget everything of that kind. That is why, gradually, clothes and so on have changed in some countries because of the changes in the life-style. Does it suit our life-style or what we want to do or not? If it does, maybe we have to adopt some of these things not merely because it is done in another country and perhaps for another purpose. But what clothes we wear is really quite unimportant. What is important is how we are thinking.
Ví dụ như khi tôi cắt tóc, đó là bởi vì cuộc sống mà tôi đang sống. Chúng ta luôn luôn vận động. Tôi đơn giản không thể để tóc dài và đi về các làng bản và gội đầu mỗi ngày. Vì vậy, khi bạn chọn sống một đời sống, một đời sống cụ thể, quần áo của bạn, tất cả mọi thứ về bạn phải phù hợp với cuộc sống để bạn làm việc hiệu quả. Nếu bạn phải đi vào các làng xóm và bạn phải mất thời gian lo lắng quần áo của bạn bị dơ, thì bạn không thể là một người làm việc hiệu quả. Bạn phải quên những điều linh tinh đó. Đó là lý do tại sao, dần dần, quần áo và những thứ tương tự luôn luôn thay đổi ở một số nước vì phong cách sống thay đổi. Những quần áo đó có phù hợp với phong cách sống của chúng ta hay những việc chúng ta muốn làm hay không? Nếu có, có thể chúng ta phải chấp nhận một phần nào đó những thứ này không chỉ đơn thuần vì nó được sáng tạo ra ở nước ngoài mà có lẽ cho những mục đích khác. Nhưng mặc trang phục nào thật sự là điều không có gì quan trọng. Điều quan trọng là cách chúng ta tư duy và suy nghĩ.
Sometimes, I am very sad that even people who do science are quite unscientific in their thinking and in their other actions–not what they are doing in the laboratories but how they live at home or their attitudes towards other people. Now, for India to become what we want it to become with a modern, rational society and firmly based on what is good in our ancient tradition and in our soil, for this we have to have a thinking public, thinking young women who are not content to accept what comes from any part of the world but are willing to listen to it, to analyse it and to decide whether it is to be accepted or whether it is to be thrown out and this is the sort of education which we want, which enables our young people to adjust to this changing world and to be able to contribute to it.
Thỉnh thoảng tôi cảm thấy rất buồn khi có những người làm việc về khoa học nhưng suy nghĩ và hành động lại khá phản khoa học – không phải tôi nói về những gì họ làm ở phòng thí nghiệm mà là cách họ sống ở nhà và thái độ của họ đối với những người khác. Ngày nay, để Ấn Độ có thể trở thành một đất nước mà chúng ta muốn nó trở thành với một xã hội hiện đại, hợp lý và nương tựa vững chải trên những điều tốt đẹp trong truyền thống cổ truyền và trong mảnh đất của chúng ta, để làm được điều đó chúng ta cần phải có một quấn chúng có tư duy, có những thanh thiếu nữ biết suy nghĩ, những người không bằng lòng chấp nhận những gì đến từ một nơi nào đó bất kỳ trên thế giới, nhưng sẵn lòng lắng nghe, phân tích những thứ đó và quyết định cái nào có thể chấp nhận được, cái nào phải gạt ngang và đây chính là phương hướng giáo dục mà chúng ta muốn, một nền giáo dục cho phép các thanh thiếu niên của chúng ta tự điều chỉnh với thế giới luôn thay đổi này và có đủ khả năng để đóng góp vào đó.
Some people think that only by taking up very high jobs, you are doing something important or you are doing national service. But we all know that the most complex machinery will be ineffective if one small screw is not working as it should and that screw is just as important as any big part. It is the same in national life. There is no job that is too small; there is no person who is too small. Everybody has something to do. And if he or she does it well, then the country will run well.
Một số người nghĩ rằng chỉ bằng cách làm những công việc cao cấp, thì họ mới làm điều gì đó rất quan trọng hoặc đang giúp đỡ cho đất nước. Nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng bộ máy phức tạp nhất cũng sẽ hoạt động không hiệu quả nếu chỉ một con ốc không hoạt động đúng chức năng và con ốc đó cũng quan trọng như bất kỳ một bộ phận to lớn nào khác trong cỗ máy. Điều này cũng tương tự với đời sống của một đất nước. Không có công việc nào là quá nhỏ bé; không có cá nhân nào là quá nhỏ nhoi. Tất cả mọi người đều có việc gì đó để làm. Và nếu anh hay chị làm việc đó tốt, thì đất nước sẽ hoạt động tốt.
In our superstition, we have thought that some work is dirty work. For instance, sweeping has been regarded as dirty. Only some people can do it; others should not do it. Now we find that manure is the most valuable thing that the world has today and many of the world’s economies are shaking because there is not enough fertilizer–and not just the chemical fertilizer but the ordinary manure, night-soil and all that sort of thing, things which were considered dirty.
Trong suy nghĩ của chúng ta, chúng ta hay mường tượng có những công việc gọi là công việc dơ bẩn. Ví dụ như, quét rác là công việc dơ bẩn. Chỉ có một số người có thể làm việc đó; những người khác không nên làm việc đó. Ngày nay chúng ta thấy rằng phân là nguồn tài nguyên giá trị mà thế giới ngày nay rất cần và rất nhiều nền kinh tế trên thế giới đang rúng động vì họ không có đủ phân bón – và không chỉ phân bón hóa học mà là phân bình thường, phân hữu cơ, phân từ người và các loại tương tự, những thứ được xem là dơ bẩn.
Now it shows how beautifully balanced the world was with everything fitted in with something else. Everything, whether dirty or small, had a purpose. We, with our science and technology, have tried to–not purposely, but somehow, we have created an imbalance and that is what is troubling, on a big scale, the economies of the world and also people and individuals. They are feeling alienated from their societies, not only in India but almost in every country in the world, except in places where the whole purpose of education and government has to be to make the people conform to just one idea. We are told that people there are very happy in whatever they are doing. If they are told to clean the streets, well, if he is a professor he has to clean the streets, if he is a scientist he has to do it, and we were told that they are happy doing it. Well, if they are happy, it is alright.
Ngày nay chúng ta thấy thế giới này cân đối tuyệt đẹp biết bao khi mọi thứ phối hợp khớp lại với nhau. Tất cả mọi thứ, dù là nhỏ nhoi hay dơ bẩn đều có mục đích của nó. Chúng ta, với khoa học và công nghệ của mình, đã cố gắng – dù không cố tình, nhưng bằng cách nào đó, chúng ta đã tạo ra sự mất cân đối, và trên bình diện rộng, nó gây ra vấn đề đối với các nền kinh tế trên thế giới, đối với các xã hội, và cả các cá nhân. Mọi người cảm thấy xa lạ với chính xã hội của họ, không phải chỉ ở Ấn Độ mà hầu như ở tất cả các nước trên thế giới, chỉ trừ những nơi mà toàn bộ mục tiêu của giáo dục và nhà nước chỉ là để làm mọi người tuân thủ một y’ tưởng duy nhất. Chúng ta nghe nói rằng ở đó mọi người lúc nào cũng rất hạnh phúc với bất kỳ việc gì họ làm. Nếu người ta bảo họ dọn sạch đường phố, ừ, nếu anh là giáo sư đại học anh phải dọn sạch đường phố, nếu anh là nhà khoa học anh phải làm việc đó, và chúng ta nghe nói rằng họ làm việc đó một cách rất vui vẻ. Ừ thì nếu họ vui vẻ, điểu đó tốt.
But I do not think in India we can have that kind of society where people are forced to do things because we think that they can be forced maybe for 25 years, maybe for 50 years, but sometime or the other there will be an explosion. In our society, we allow lots of smaller explosions because we think that that will guard the basic stability and progress of society and prevent it from having the kind of chaotic explosion which can retard our progress and harmony in the country.
Nhưng tôi không nghĩ rằng ở Ấn Độ chúng ta có thể có loại xã hội như vậy. Một xã hội mà ở đó con người có thể bị ép làm việc bởi vì chúng ta nghĩ rằng họ có thể bị ép buộc, có thể là trong 25 năm, có thể là trong 50 năm, nhưng một lúc nào đó sẽ có một sự bùng nổ. Trong xã hội của chúng ta, chúng ta cho phép rất nhiều bung nổ nhỏ hơn bởi vì chúng ta nghĩ rằng điều đó bảo vệ sự ổn định cơ bản và sự tiến bộ của xã hội và ngăn ngừa xã hội khỏi những bùng nổ xáo trộn xã hội, làm chậm lại tiến trình phát triển của xã hội và sự hòa hợp của đất nước.
So, I hope that all of you who have this great advantage of education will not only do whatever work you are doing keeping the national interests in view, but you will make your own contribution to creating peace and harmony, to bringing beauty in the lives of our people and our country. I think this is the special responsibility of the women of India. We want to do a great deal for our country, but we have never regarded India as isolated from the rest of the world. What we want to do is to make a better world. So, we have to see India’s problems in the perspective of the larger world problems.
Vì vậy, tôi hy vọng rằng tất cả các bạn, những người có một thuận lợi rất to lớn là được giáo dục, sẽ không chỉ làm công việc của mình vì lợi ích của quốc gia, mà các bạn sẽ còn nỗ lực đóng góp phần mình vào công cuộc sáng tạo hòa bình và hòa hợp, vào việc mang cái đẹp đến với cuộc sống của nhân dân chúng ta và đất nước chúng ta. Tôi nghĩ đây là trách nhiệm quan trọng của phụ nữ Ấn Độ. Chúng ta muốn làm nhiều cho đất nước, nhưng chúng ta phải nhớ đừng xem Ấn Độ là cô lập với thế giới. Những gì chúng ta muốn làm là làm cho thế giới này tốt đẹp hơn. Vì vậy chúng ta phải xem xét các vấn đề của Ấn Độ dưới góc độ các vấn đề lớn hơn của thế giới.
It has given me great pleasure to be with you here. I give my warm congratulations to those who are doing well and my very good wishes to all the others that they will also do much better. This college has had a high reputation but we must always see that we do better than those who were there before us. So, good luck and good wishes to you.
Thật sự là một vinh dự cho tôi được ở đây với các bạn hôm nay. Tôi gửi lời chúc mừng nồng nhiệt đến tất cả các bạn những người hiện đang học tập và làm việc rất tốt và xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến các bạn mong các bạn sẽ còn học tập và làm việc tốt hơn nữa. Trường đại học này đã có sẵn danh tiếng rất lớn nhưng chúng ta phải luôn luôn thấy rằng chúng ta học tập và làm việc tốt hơn, giỏi hơn những người đi trước chúng ta. Và, chúc may mắn và chúc mọi điều tốt đẹp đến với các bạn.

MARKETING: TIẾP THỊ



In recent study, Swinda Janda and collaborator Hong-Youl Ha of South Korea’s Kangwon National University explored how businesses can cultivate and keep loyal customers and how relationships between businesses and customers mirror human relationships.
Trong nghiên cứu gần đây, Swinda Janda và cộng sự Hong-Youl Ha của Đại học quốc gia Hàn Quốc Kangwon đã phát hiện ra cách doanh nghiệp có thể khai thác và giữ những khách hàng trung thành và mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng phản ánh mối quan hệ giữa người với người như thế nào.
Janda was not surprised to find that in order to create a relationship, consumers have to perceive it will pay off, monetarily or otherwise.
Janda không ngạc nhiên khi biết rằng để tạo dựng một mối quan hệ, người tiêu dùng phải nhận thức rằng nó sẽ trả bằng tiền hoặc bằng một thứ khác.
The study found that promotional events designed to counter customers’ negative attitudes can significantly enhance the customers’ likelihood of engaging in a long-term relationship with the business
Nghiên cứu chỉ ra những sự kiện quảng bá được thiết kế để chống lại thái độ tiêu cực từ khách hàng có thể làm gia tăng đáng kể khả năng tham gia của khách hàng vào mối quan hệ dài hạn với doanh nghiệp.
For a car dealership, Janda said this could mean promotions that don’t focus on a hard-sell approach but rather on providing relevant information such as the availability of rebates for the customer.
Đối với một đại lý xe hơi, Janda nói rằng điều này có ý nghĩa rằng các chương trình khuyến mãi không tập trung vào hướng bán hàng bằng cách gây áp lực mà vào cung cấp những thông tin liên quan như độ sẵn sàng của việc giảm giá cho khách hàng.
In terms of online retailers, in order to enhance customer loyalty, they should focus on enhancing customer perceptions of their trustworthiness.
Về mặt nhà bán lẻ trực tuyến, để tăng cường lòng trung thành của khách hàng, họ nên tập trung vào việc nâng cao nhận thức của khách hàng về độ tin cậy của họ.
This can be accomplished by providing assurances that personal and credit card information is secure.
Điều này có thể được thực hiện bởi việc cung cấp những đảm bảo rằng thông cá nhân và thẻ tín dụng được bảo mật.
Janda’s research shows that it takes more than satisfaction with a product for customers to return to a retail website, and suggests that online retailers use positive reinforcement like providing customers with discounts on future purchases, or free merchandise to increase the probability of future site visits.
Nghiên cứu của Janda cho thấy việc quay trở lại trang web bán lẻ đòi hỏi nhiều hơn ngoài sự hài lòng với sản phẩm, và đề xuất rằng các nhà bán lẻ trực tuyến nên sử dụng sự củng cố tích cực giống như giảm giá cho khách hàng trong những giao dịch tương lai, miễn phí đơn hàng để tăng xác suất truy cập trang web trong tương lai.
They should also bear in mind that customers judge online retailers not just by the quality of their products but also by whether the website loads quickly, and the frequency of pop-up windows.
Họ cũng nên ghi nhớ rằng khách hàng đánh giá nhà bán lẻ không chỉ dựa vào chất lượng sản phẩm mà còn ở khả năng trang web có tải trang nhanh hay không và tần suất các cửa sổ tùy chọn hiện ra.
With the prevalence of social media, Janda said it is now more important than ever for companies to implement systems that are geared towards managing unhappy customers
Với sự thịnh hành của truyền thông xã hội, Janda nhận định hiện nay điều quan trọng hơn hết cho bất kỳ công ty nào là triển khai những hệ thống hướng đến quản lý những khách hàng không hài lòng.
As an example, he points to the more than eight million views for a video clip posted online by the dissatisfied customer of an airline
Lấy ví dụ, anh ấy chỉ ra việc đã có hơn tám triệu lượt xem một video clip đăng trực tuyến bởi một khách hàng không hài lòng của một hãng hàng không
‘With social networking, it’s very easy for one dissatisfied customer to post on his or her blog that a company messed up,' Janda said.
‘Với mạng xã hội, rất dễ dàng cho một khách hàng thất vọng đăng trên blog của người đó rằng một công ty đã gây rối’ Janda nói.

Think positive: Hãy suy nghĩ tích cực




If your head’s in a spin because you’ve had a bad night's sleep, or you’re hungover, or maybe you’ve just got too much to do, the chances are you’re not in the best of moods.
Nếu đầu bạn đang quay cuồng vì bạn đã trải qua một giấc ngủ không ngon tối qua, hay là do bạn bị xỉn, hoặc có lẽ bạn có quá nhiều việc để làm, rất có thể bạn đang không có được tâm trạng tốt nhất.
How are you feeling today?
Hôm nay bạn cảm thấy thế nào?
If your head’s in a spin because you’ve had a bad night's sleep, or you’re hungover, or maybe you’ve just got too much to do, the chances are you’re not in the best of moods.
Nếu đầu bạn đang quay cuồng vì bạn đã trải qua một giấc ngủ không ngon tối qua, hay là do bạn bị xỉn, hoặc có lẽ bạn có quá nhiều việc để làm, rất có thể bạn đang không có được tâm trạng tốt nhất.
If everything seems like an effort and you have a negative attitude, the last thing you want to be told it to ‘be positive!’
Nếu mọi thứ có vẻ như là một sự nỗ lực và bạn có một thái độ tiêu cực, điều cuối cùng bạn muốn được nói là “hãy tích cực lên”.
But having this mindset could have more benefits than you think.
Việc tư duy theo cách đó có nhiều lợi ích hơn là bạn nghĩ.
Of course, developing a positive attitude is easier said than done – it doesn’t come naturally to everyone.
Tất nhiên, để có được thái độ tích cực thì nói bao giờ cũng dễ hơn là thực hiện, bởi nó không đến một cách tự nhiên.
When you’re feeling down in the dumps, it is hard to be optimistic.
Khi bạn cảm thấy chán nản, sẽ rất khó để trở nên lạc quan.
But a study in the US has found that people who are optimists are more likely to live longer than those who have a more negative approach to life.
Tuy nhiên, một nghiên cứu ở Mỹ đã chỉ ra rằng, những người lạc quan thường sống thọ hơn những người có cái nhìn tiêu cực đối với cuộc sống.
It revealed the likelihood of positive people living to the age of 85 or more to be higher.
Nghiên cứu này tiết lộ khả năng những người lạc quan sống đến 85 tuổi trở nên cao hơn.
So, maybe the thought of a longer life might encourage you to have a more hopeful outlook on life.
Thế nên có lẽ suy nghĩ về một cuộc sống thọ hơn sẽ khuyến khích bạn có một cái nhìn nhiều hy vọng hơn về cuộc sống.
The study concluded that optimists may find it easier to control emotions and get less stressed.
Nghiên cứu kết luận những người lạc quan sẽ dễ dàng hơn trong việc kiểm soát cảm xúc và ít bị stress hơn.
And as stress impacts on the immune system, it’s possible that optimists cope better with infections.
Và khi căng thẳng tác động đến hệ thống miễn dịch, những người lạc quan có thể đối phó với nhiễm trùng tốt hơn.
Professor Lewina Lee from Boston University School of Medicine, who worked on the study, told the BBC that: "Our findings speak to the possibility that raising levels of optimism may promote longevity and healthy ageing."
Giáo sư Lewina Lee, Đại học Y khoa Boston, tác giả của nghiên cứu này nói với BBC rằng: “Phát hiện của chúng tôi nói lên khả năng rằng việc tăng mức độ lạc quan có thể gia tăng sức khỏe và tuổi thọ”.
And she advises that pessimists could benefit from doing things like imagining a future where everything turns out well.
Bà giáo sư cũng khuyên rằng những người bi quan có thể lợi dụng việc làm những điều như là nghĩ về một tương lai nơi tất cả mọi thứ đều tốt đẹp.
But if you’re a ‘glass half empty’ type of person, could seeing the world through rose-tinted glasses work for you?
Nhưng nếu bạn là người theo tuýp bi quan, liệu bạn có thể nhìn thế giới với lăng kính tích cực?
Accepting that we all have problems and that we’re not all the same helps us to get a grip on our emotions.
Chấp nhận rằng tất cả chúng ta đều có những vấn đề riêng và mọi người không ai giống ai sẽ giúp chúng ta kiểm soát cảm xúc của mình.
Some people say it’s best to celebrate the positives and not dwell on the negative parts of our lives.
Một vài người nói rằng tốt nhất là nên tận hưởng những điều tích cực và không để ý đến những điều tiêu cực trong cuộc sống của chúng ta.
People have being giving the BBC their personal advice on keeping a healthy and positive approach to life: Vicki Siska says "Music feeds my soul, a sense of humour keeps things in perspective, and I have good friends who love and care for me."
Mọi người đang gửi cho BBC những lời khuyên cá nhân của họ về việc duy trì sức khỏe và thái độ tích cực đối với cuộc sống: Vicki Siska nói rằng: “Âm nhạc nuôi dưỡng tâm hồn tôi, sự hài hước khiến mọi thứ được nhìn nhận tích cực, và tôi có những người bạn tốt là những người yêu thương và quan tâm đến tôi”.
And Pippa Kennedy says "being grateful for what you have - and lots of chocolate - helps!"
Pippa Kennedy nói: “hãy biết ơn những gì bạn có và cả những thứ bạn mất”!
The saying goes that ‘a healthy body leads a healthy mind’ which is probably why other people have recommended doing yoga and meditation as well as staying fit and healthy to help maintain a positive outlook on life.
Người ta nói rằng “một cơ thể khỏe mạnh sẽ mang đến một tâm trí khỏe mạnh”, đó có lẽ là lý do tại sao mọi người thường khuyên tập yoga và thiền cũng như việc duy trì vóc dáng săn chắc và khỏe mạnh giúp duy trì cái nhìn tích cực về cuộc sống.

Selling the health benefits of enriched ‘phoods’

Bán những viên thực phẩm chức năng có lợi cho sức khỏe


A The introduction of iodine to Morton Salt in 1924 was instrumental in eradicating a dangerous thyroid condition called goiter from the U.S. population.
Sự xuất hiện của i-ốt trong muối ăn Morton năm 1924 đóng vai trò quan trọng trong việc loại bỏ một căn bệnh tuyến giáp nguy hiểm là bệnh bướu cổ ra khỏi nước Mỹ.
It was also the first time a food company purposely added a medically beneficial ingredient to food to help market that product.
Đây cũng là lần đầu tiên một công ty thực phẩm bổ sung một thành phần có lợi về mặt y học vào thực phẩm để bán sản phẩm đó.
Eighty years later, the food industry is intensively researching all kinds of other healthful ingredients it hopes to use to help sell otherwise everyday foods.
80 năm sau đó, ngành công nghiệp thực phẩm đang nghiên cứu tất cả các thành phần có lợi cho sức khỏe khác, hy vọng sẽ sử dụng nó để giúp bán các loại thực phẩm hàng ngày khác.
Functional foods, or ‘phoods’ as they're sometimes called to connote the intersection of food and pharmaceuticals, have been trickling into supermarkets over the past several years - think of calcium-enhanced orange juice and cholesterol-lowering margarine, for example.
thực phẩm chức năng, hay còn gọi là "phoods" vì chúng thỉnh thoảng được dùng để ám chỉ sự giao nhau giữa thực phẩm và y khoa, đã được đưa vào các siêu thị trong suốt những năm vừa qua - ví dụ như nước cam giàu canxi và bơ ít cholesterol.
But they met with mixed success at first because consumers didn’t know or care enough about the new ingredients.
Tuy nhiên, lúc ban đầu các sản phẩm này chỉ thành công một phần bởi vì người tiêu dùng đã không biết hoặc quan tâm tới những thành phần mới này.
B. Now, though, consumers' growing awareness of health and nutrition, and new regulatory rulings that will make it easier for manufacturers to make health claims on packaging, are re-energizing the ‘phood’ business.
Ngược lại, ngày nay, người tiêu dùng ngày càng nhận thức rõ hơn về sức khỏe và dinh dưỡng, cũng như các quy định mới giúp cho các nhà sản xuất tuyên bố những lợi ích sức khỏe trên bao bì sản phẩm, đã tiếp thêm sức mạnh cho ngành kinh doanh thực phẩm chức năng.
Once again, food companies see Functional foods as a way to boost sales in a highly competitive market. ‘It’s definitely a big deal said David Lockwood, editor of a recent report on Functional foods by market research giant Mintel International Group Ltd.’
Một lần nữa, những công ty thực phẩm nhìn nhận thực phẩm chức năng như là một cách để tăng doanh số trong một thị trường cạnh tranh khốc liệt. “Nó chắc chắn là một vấn đề lớn”, David Lockwood, biên tập viên của một bài báo cáo gần đây về thực phẩm chức năng bởi một công ty nghiên cứu thị trường lớn Mintel International Group Ltd cho biết.
‘We expect [the Functional foods business] to grow about 7.6 percent annually - that's about twice as fast as the overall food market is going to be growing.’
" Chúng tôi kỳ vọng mảng kinh doanh thực phẩm chức năng sẽ tăng trưởng khoảng 7.6% hàng năm, nhanh gấp đôi mức độ tăng trưởng của ngành thực phẩm nói chung.
At the recent annual meeting of the Food Marketing Institute, fully half of the 75 new products one major food company introduced had a ‘‘health and wellness’ focus, the company said.
Tại một cuộc hội thảo hàng năm của Viện nghiên cứu tiếp thị thực phẩm, một công ty thực phẩm lớn cho biết một nửa trong số 75 sản phẩm mới mà công ty này đã cho ra mắt có chú trọng vào yếu tố sức khỏe.
That’s up from 15 percent of its new products the year before.
Vào năm ngoái thì chỉ có 15% các sản phẩm mới của công ty này là các sản phẩm chức năng.
C. Many of these products have added vitamins and minerals, such as a new juice drink that provides 100 percent of a child’s daily vitamin C requirement, and a smoothie boosted with calcium.
Nhiều trong số các sản phẩm này đã được bổ sung các vitamin và khoáng chất, ví dụ như một loại nước uống trái cây mới cung cấp 100% lượng Vitamin C mỗi ngày mà một đứa trẻ cần, hay là một loại sinh tố tăng cường canxi.
Lutein, linked to vision health, is now added to prune juice.
Lutein, có liên quan tới sức khỏe thị giác, hiện nay đã được bổ sung vào nước ép mận.
Soy protein, which can help prevent heart disease, is being added to new breakfast cereals.
Protein từ đậu nành, vốn có thể giúp ngăn ngừa các bệnh tim mạch, đã được bổ sung vào các loại ngũ cốc ăn sáng mới.
Major food giants are actively unveiling products overseas, including yogurt with probiotic bacteria to aid digestion.
Các công ty thực phẩm lớn hiện đang tiếp thị mạnh vào các thị trường nước ngoài các sản phẩm bao gồm sữa chua với những lợi khuẩn có thể hỗ trợ tiêu hóa.
These nutritionally oriented products make up just 8 percent of company sales but account for 15 percent of its research budget, according to company spokesman Hans-Joerg Renk.
Những thực phẩm dinh dưỡng này chiếm khoảng 8% doanh số bán hàng, nhưng chiếm tới 15% ngân sách nghiên cứu phát triển, theo Hans-Joerg Renk phát ngôn viên của công ty.
D. There’s a lot of research and development going on into what kinds of products people want, what kinds of products we can produce to meet the demand - that taste good and will be successful in the marketplace - and how we communicate the benefits,’ said Michael E. Diegel, a spokesman for the Grocery Manufacturers of America.
Có rất nhiều các nghiên cứu và phát triển tập trung vào những sản phẩm nào người tiêu dùng cần, những dòng sản phẩm nào chúng ta có thể sản xuất để đáp ứng nhu cầu - những thứ có vị ngon và sẽ thành công trên thị trường - và làm thế nào chúng ta có thể truyền thông những lợi ích của chúng, phát ngôn viên của công ty Grocery từ Hoa Kỳ, Michael E.Diegel cho hay.
Vitamin water drinks, spiked with nutrients such as taurine, vitamin C, calcium and potassium, can be found on shelves of gourmet shops and supermarkets.
Những loại nước uống có vitamin, được bổ sung các dưỡng chất như taurine, vitamin C, canxi và kali, hiện nay có thể được tìm thấy trên kệ của các cửa hàng chuyên về thực phẩm và các siêu thị.
Officials at privately owned Energy Brands Inc. attribute much of the dramatic growth in sales to consumers’ rising interest in nutrition and wellness.
Những nhiên viên tại một công ty tư nhân Energy Brands cho rằng chính nhờ sự quan tâm của ngày càng tăng về dinh dưỡng và sức khỏe của người tiêu dùng là nhân tố chính dẫn đến sự tăng trưởng vượt bậc về doanh số.
E Food marketing professor Nancy Childs, of St. Joseph’s University in Philadelphia, said the widespread awareness of the low-carb phenomenon has led many consumers to check food labels while trying to lose weight.
Giáo sư về tiếp thị thực phẩm, Nancy Childs, từ Đại học St.Joseph's ở Philadelphia, đã cho rằng sự nhận thức rộng rãi về hiện tượng tinh bột thấp đã dẫn tới việc nhiều người tiêu dùng đã kiểm tra nhãn mác thực phẩm khi họ đang giảm cân.
‘It starts to make them think about their food in terms of its nutritional components,’ she said, which makes it easier to introduce other ingredients such as soy, fiber and many lesser- known compounds.
Cô ta cho rằng, "Điều này bắt đầu làm cho người tiêu dùng nhìn nhận thực phẩm dựa vào các thành phần dinh dưỡng của chúng, và nó giúp cho việc bổ sung những thành phần khác như đậu nành, chất xơ và các thành phần ít được biết đến khác trở nên dễ dàng hơn.
Although more consumers may be ready to try the new products, the real driver behind the reborn interest of food manufacturers comes from science and the government.
Mặc dù có nhiều người tiêu dùng sẵn sàng thử các sản phẩm mới hơn, động lực thực sự đằng sau việc các công ty sản xuất thực phẩm quan tâm trở lại thực phẩm chức năng đến từ các nghiên cứu khoa học và chính phủ.
Government labs, universities and private companies are doing more research on the health effects of many nutrients, food scientists say, but much of it falls short of the full-scale clinical trials that the Food and Drug Administration has required for use in marketing.
Những phòng thí nghiệm của chính phủ, các trường đại học và các công ty tư nhân đang thực hiện nhiều các nghiên cứu trên những tác dụng của các chất dinh dưỡng lên sức khỏe, những nhà khoa học thực phẩm cho hay, nhưng đa số chúng đều không thực hiện được trên quy mô thí nghiệm y khoa toàn diện mà bộ Thực phẩm, Dược phẩm yêu cầu để được sử dụng cho mục đích marketing.
F Beginning this spring, the FDA started allowing ‘qualified health claims’ on foods, telling consumers about ingredients that current science suggests might be helpful in preventing certain diseases and medical conditions.
Bắt đầu vào mùa xuân này, FDA (Bộ thực phẩm và dược phẩm) đã bắt đầu cho các công ty công bố các lợi ích sức khỏe lên thực phẩm, thông tin cho khách hàng về các thành phần mà khoa học cho rằng có lợi trong việc phòng ngừa một số căn bệnh nhất định.
‘FDA feels that this does provide mere information to the consumer,' said Kathleen C. Ellwood, director of the agency’s division of Nutrition Programs and Labeling.
Kathleen C. Ellwood, giám đốc phòng Các chương trình dinh dưỡng và dán nhãn sản phẩm của FDA cho rằng "FDA nghĩ rằng điều này đơn thuần giúp cung cấp cho khách hàng nhiều thông tin hơn.
It’s more to empower the consumer, to make them more aware of possible health benefits in these foods.’
Điều này cho phép khách hàng nhiều cơ hội để nhận biết được các lợi ích sức khỏe của các loại thức ăn này.
That allowance has opened the floodgates.
Việc cấp phép này đã mở ra cơ hội mà trước đây chưa từng có.
Dozens of petitions have been filed with the agency seeking permission for such claims: sports drink maker American Longevity wants to claim that lycopene reduces the risk of cancer; coral calcium producer Marine Bio USA has petitioned for a claim that calcium can reduce the risk of kidney stones; and the North American Olive Oil Association wants permission to use a claim that monounsaturated fatty acids can reduce the risk of heart disease.
Hàng tá các đơn yêu cầu đã được gửi tới cơ quan này để xin được cấp phép cho các công bố như: Công ty American Longevity, nhà sản xuất các loại đồ uống thể thao muốn công bố chất lycopene giảm nguy cơ ung thư, nhà sản xuất canxi từ san hô, Marine Bio USA, đã nộp đơn yêu cầu cho một công bố rằng canxi có thể làm giảm nguy cơ sỏi thận; và hiệp hội dầu Oliu Bắc Mỹ muốn được cấp phép cho công bố axit béo không bão hòa đơn có thể giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch.
Consumers will start seeing these claims on packages soon, though some nutritionists and scientists are worried that the findings aren't rock solid.
Người tiêu dùng sẽ bắt đầu nhìn thấy những công bố này trên bao bì sớm, mặc dù nhiều nhà dinh dưỡng và nhà khoa học quan ngại rằng những khám phá này có thể không chắc chắn.
The non-profit Center for Science in the Public Interest has filed suit against the FDA, arguing that the new program violates the 1990 Nutrition Labeling and Education Act, which mandated a higher level of scientific agreement for marketing the health benefits of ingredients.
Một trung tâm Khoa học phi lợi nhuận trong mối quan tâm đại chúng đã đệ đơn kiện FDA, họ cho rằng chương trình này đã vi phạm điều luật Nhãn mác dinh dưỡng và Giáo dục năm 1990, bộ luật này yêu cầu một sự thống nhất rộng rãi về khoa học cho việc tiếp thị các lợi ích sức khỏe của các thành phần dinh dưỡng.
G Others fear there will be so many claims they will just become more noise to already be wildered consumers.
Những người khác thì lo ngại rằng sẽ có rất nhiều công bố, và những công bố này chỉ càng gây thêm nhiễu loạn trên thị trường đối với những người tiêu dùng vốn đã đang hoang mang.
‘I'm concerned that too many such claims will cause consumers to tune out and make all of them ineffective,’ said Clare Hasler. executive director of the Robert Mondavi Institute for Wine and Food Science at the University of California at Davis.
Clare Hasler, giám đốc điều hành của viện nghiên cứu Robert Mondavi về Khoa học Rượu vang và thực phẩm tại đại học California ở Davis cho rằng, "Tôi lo ngại rằng quá nhiều các công bố như vậy sẽ khiến cho người tiêu dùng phớt lờ và làm cho chúng không còn hiệu quả nữa".
So far, the FDA has approved only a handful of qualified health claims, and they show the limitations that this new system may have, for consumers and food companies.
Cho tới hiện tại, FDA chỉ mới phê duyệt một vài tuyên bố về sức khỏe hợp lệ, và chúng chỉ ra những giới hạn mà hệ thống này có thể có đối với người tiêu dùng, và các công ty thực phẩm.
The California Walnut Commission, for example, wanted permission to put this claim on packages of walnuts, which are high in Omega-3 polyunsaturated fatty acids: ‘Diets including walnuts can reduce the risk of heart disease.’
Ví dụ như, Hiệp hội Hạt óc chó California, muốn được phê duyệt cho việc in ấn công bố lên bao bì hạt óc chó, loại thực phẩm giàu Omega-3, axit béo không bão hòa đa " Các loại thực phẩm bao gồm hạt óc chó có thể giảm nguy cơ bệnh tim mạch.
The agency approved wording that is not quite as snappy for package design: ‘Supportive but not conclusive research shows that eating 1.5 oz. of walnuts per day, as part of a low saturated fat and low cholesterol diet, and not resulting in increased caloric intake, may reduce the risk of coronary heart disease.’
FDA đã chấp thuận những công bố mà không thực sự sống động cho việc thiết kế bao bì: "Hỗ trợ nhưng không có những nghiên cứu thuyết phục chứng minh rằng ăn 1.5 oz hạt óc chó mỗi ngày, như là một phần của chế độ ăn ít chất béo bão hòa và ít cholesterol, và không dẫn tới việc tăng cường calo, có thể làm giảm nguy cơ bệnh động mạch vành".

NGỌC THU

ARTCANDY SHOP NGỌC THU -     Trên   bước   đường   THÀNH   CÔNG , không   có   dấu   chân   của   những   kẻ   LƯỜI   BIẾNG . ...