MAJOR SUBWAYS OF EUROPE

NHỮNG ĐƯỜNG TÀU ĐIỆN NGẦM QUAN TRỌNG Ở CHÂU ÂU



1. Public transportation 1 is an intrinsic part of every modem city. Many big cities have an underground rail system as their centerpiece. Three of the biggest and busiest underground rail systems in Europe are in London, Paris, and Moscow. The character of each city imprints its railways.
Phương tiện giao thông công cộng là một phần cơ bản và quan trọng của các thành phố hiện đại. Nhiều thành phố lớn có hệ thống đường sắt ngầm làm điểm nhấn trung tâm. Ba trong số các hệ thống đường sắt ngầm lớn nhất và đông đúc nhất ở Châu Âu nằm ở London, Paris và Moscow. Đặc điểm riêng của từng thành phố ảnh hưởng lớn lên đường sắt của chúng.
2. The first of these subways was London’s Underground, which opened in 1863. By that time, horses and pedestrians had so clogged the streets of London that city government ruled that no railroads could enter the city except underground.
Đường ngầm đầu tiên trong số những đường ngầm kể trên là hệ thống tàu điện ngầm London, được mở ra lần đầu vào năm 1863. Vào thời điểm đó, ngựa và khách bộ hành đi lại tắc nghẽn những con phố London khiến chính phủ thành phố phải đề ra luật không đường xe lửa nào được đi vào trong thành phố trừ các đường tàu ngầm.
The method used for laying the first underground tracks is called “cut and cover," meaning the streets were dug up, the track was laid, a tunnel was built, and then everything was buried.
Phương pháp được sử dụng để dựng lên những thanh ray đầu tiên dưới lòng đất được gọi là “ đào và lấp”, có nghĩa là những con đường cái sẽ được đào xới, những thanh ray được lắp đặt, một đường hầm được xây dựng, và sau đó tất cả mọi thứ được chôn lấp trở lại.
Although the method was disruptive, it worked. Steam engines chugged under London, releasing steam through vents along the city streets. In its initial day of operation, the London Underground carried 30,000 passengers.
Mặc dù phương pháp này gây gián đoạn, nó vẫn có hiệu quả. Động cơ máy hơi nước nổ bình bịch dưới lòng đất London, thải hơi nước thông qua những lỗ thông hơi dọc các con phố. Trong những ngày đầu tiên đi vào hoạt động, hhệ thống đường ngầm London đã chứa chở được 30,000 hành khách.
3. This cut-and-cover method caused massive disruptions in the city and required the destruction of the structures above the tunnel.
Phương pháp đào-và- lấp này gây ra nhiều gián đoạn nghiêm trọng trong thành phố và yêu cầu phải phá hủy nhiều công trình kiến trúc phía trên đường hầm.
A better means of expanding the original Underground was needed, and builders did not have to look far to find it.
Một phương thức tốt hơn để mở rộng đường ngầm ban đầu là cần thiết, và những chủ thầu không cần phải tìm kiếm nó ở đâu xa nữa.
London was also home to the first underwater tunnel, a pedestrian tunnel that had been built under the Thames River in 1825, made possible by the engineer Marc Brunel.
London cũng đồng thời là nơi sinh ra đường hầm dưới nước đầu tiên, một đường hầm bộ được xây dựng dưới con sông Thames đã trở thành hiện thực bởi kĩ sư Marc Brunel vào năm 1825.
He had devised a way of supporting the tunnel while the workers dug, called the Brunel Shield.
Ông đã phát minh ra một cách chống đỡ con đường hầm trong khi các công nhân thực hiện đào hầm, được gọi là lớp chắn Brunei.
Two young engineers improved the Brunei Shield for use in expanding the London Underground.
Hai người kĩ sư trẻ đã cải thiện tấm chắn Brunei để có thể ứng dụng trong việc mở rộng đường ngầm London.
The new Harlow- Greathead Shield carved a circular tube more than seven feet in diameter, which is why the London Underground is called the Tube.
Lớp chắn Harlow-Greathead mới đã tạo nên một đường ống tròn với đường kính dài hơn 7 feet. Đó là lý do vì sao đường ngầm London dược gọi là Đường Ống.
By then, the tunnels could be deeper than the original ones because electric train engines had become available.
Sau đó, các đường hầm đã có thể trở nên sâu hơn so với ban đầu bởi đầu máy xe lửa điện đã được đưa vào sử dụng.
These trains did not have to be close to the surface to release steam.
Những chiếc xe lửa ấy không cần phải đặt gần sát mặt đất để thoát hơi nước.
The shield could be used to dig deeper tunnels without destroying the surface structures above them.
Lớp chắn có thể được sử dụng để đào những đường hầm sâu hơn mà không cần phá hủy những công trình kiến trúc trên bề mặt.
4. Paris started designing an underground rail service to rival London’s.
Thành phố Paris bắt đầu thiết kế dịch vụ đường sắt ngầm để cạnh tranh với London
The first part of its system was not opened until the World’s Fair and Olympics were held in that city in 1900.
Phần đầu tiên của hệ thống này không được khánh thành cho tới Triển lãm Thế giới và Thế vận Hội được tổ chức tại thành phố vào năm 1990.
The Paris Metro is shorter than London’s, but it carries more passengers every day, second in Europe only to Moscow.
Tàu điện ngầm Paris ngắn hơn của London, nhưng nó có thể mang được số lượng hành khách nhiều hơn mỗi ngày.
Whereas London’s Underground is known for its engineering, Paris’s Metro is known for its beauty.
Trong khi hệ thống đường ngầm của London được biết tới bởi công trình xây dựng, thì hệ thống đường ngầm của Paris lại nổi tiếng bởi vẻ đẹp của nó.
The stations and entrances are examples of art nouveau architecture, and they are decorated with mosaics, sculptures, paintings, and innovative doors and walls.
Các nhà ga và lối ra vào là ví dụ của kiến trúc theo lối tân nghệ thuật, và chúng được trang trí với các bức khảm, tác phẩm điêu khắc cùng những cánh cửa, bức tường cải tiến mới mẻ, sáng tạo.
5. The Moscow Metro opened in 1935. It was based on the design of the London Tube, except much of the track is above ground.
Hệ thống tàu điện ngầm Moscow được mở ra lần đầu vào năm 1935. Nó dựa trên thiết kế của Tàu điện ngầm London, trừ việc phần lớn các ray tàu được đặt trên bề mặt.
When Stalin came to power, he used the stations as showcases of Russian art, culture, and engineering. The underground Moscow stations are filled with statuary, painting, and mosaics.
Khi Stalin lên nắm quyền, ông đã sử dụng các nhà ga như biểu tượng của nghệ thuật, văn hóa và kĩ thuật xây dựng Nga. Các nhà ga tàu ngầm của Nga đầy những tượng, bức vẽ và các bức khảm.
6. Underground railways are not only for transportation. During World War II, all three underground systems were used as bomb shelters for the populace.
Hệ thống đường sắt ngầm không chỉ phục vụ trong giao thông vận tải. Trong khoảng thời gian Thế Chiến 2 xảy ra, cả ba hệ thống đường ngầm này đều được sử dụng như những nơi tránh bom cho dân thường.
The Moscow subway was even used as a military headquarters. Stores and malls have sprung up by stations, something that is especially convenient in cold climates.
Đường xe ngầm Moscow thậm chí còn là cơ quan chỉ huy của quân đội. Các cửa hiệu và trung tâm mua sắm xuất mọc lên như nấm sau mưa bên cạnh các nhà ga, và điều này đặc biệt thuận tiện ở những nơi có khí hậu lạnh.
7. All three systems are continuing to expand, providing service to more riders in more distant locales. This is all part of an effort to decrease greenhouse gases emitted from personal vehicles.
Cả ba hệ thống tàu điện ngầm kể trên đều đang tiếp tục được mở rộng, cung cấp dịch vụ cho những người đi xe đạp ở nhiều khu vực xa hơn. Tất cả điều này là một phần nỗ lực để giảm thiểu khí nhà kính thải ra từ phương tiện giao thông cá nhân.




Wheelchair-Accessibility Issues

Các vấn đề về khả năng tiếp cận xe lăn


As many as 650 million people worldwide live with some form of physical disability, and about 100 million of the disabled need a wheelchair at least part of the time.
Có tới 650 triệu người trên thế giới sống với một số dạng khuyết tật về thể chất, và khoảng 100 triệu người khuyết tật cần xe lăn ít nhất một phần thời gian.
Industrialized , higher- income nations in Asia, Europe, and North America are seeing an older population grow more incapacitated as they age, whereas in lower-income countries of Africa, Asia, and Latin America, poverty, conflict, injuries, and accidents account for most disabilities, many of them in children.
Các nước công nghiệp hóa, có mức thu nhập cao hơn ở châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ đang thấy dân số già trở nên bất lực hơn khi họ già đi, trong khi ở các nước có thu nhập thấp hơn ở châu Phi, châu Á, và châu Mỹ La tinh, sự nghèo đói, xung đột, thương tích, và tai nạn giải thích cho hầu hết sự khuyết tật, rất nhiều trong số đó là trẻ em.
wheelchairs provide a more independent lifestyle, but they come with their own set of problems: They are wide, unwieldy, and difficult to maneuver in tight spaces, on slippery surfaces, and on steep slopes — not to mention impassable stair steps.
Những chiếc xe lăn cung cấp một cách sống tự lập hơn, nhưng chính nó cũng mang đến những rắc rối như: Chúng rộng, khó sử dụng, và khó để điều khiển trong những không gian chật, trên những bề mặt trơn trượt, và trên các sườn dốc – chưa đề cập đến việc không thể qua được những bậc thang.
Accessibility issues abound at home, work, and school; in recreation activities; and in transportation.
Các vấn đề trợ năng có rất nhiều ở nhà, công việc, và trường học, trong các trò chơi tiêu khiển; và trong giao thông .
One of the most difficult places to use a wheelchair is the home.
Một trong những nơi khó để sử dụng xe lăn nhất đó chính là nhà.
The average doorway width of about 76 centimeters (30 inches) falls some 5 to 15 centimeters (2 to 6 inches) short of the space necessary to accommodate a wheelchair.
Chiều rộng trung bình của cửa ra vào khoảng 76 xăng-ti-mét (30 inch) ít hơn 5 đến 15 xăng-ti-mét ( 2 đến 6 inch) không gian cần thiết để chứa một chiếc xe lăn.
To be accessible to a person in a wheelchair, bathrooms require grab bars in showers and tubs , built-in shower seats, lower sinks and mirrors, and higher toilet seats.
Để có thể được tiếp cận với một người ngồi trên một chiếc xe lăn, phòng tắm yêu cầu các thanh vịn trong buồng tắm có vòi sen và bồn tắm, chỗ ngồi được gắn cùng bồn tắm vòi sen, bồn rửa và gương thấp hơn, và chỗ ngồi vệ sinh cao hơn.
Kitchens need lower counters and shelves as well as accessible switches for lights, garbage disposals, and exhaust fans.
Nhà bếp cần quầy và kệ thấp hơn cũng như các công tắc đèn có thể tiếp cận được, thùng rác, và quạt thông khí thải.
Also, because most homes have at least a few steps, a wheelchair ramp is a must.
Tương tự, bởi vì đa số mọi nhà có ít nhất một vài bậc thang, một đoạn dốc dành cho xe lăn là điều bắt buộc.
Many countries have laws requiring public buildings — workplaces, stores, restaurants, and entertainment and sports facilities — to be wheelchair accessible.
Rất nhiều các quốc gia có luật yêu cầu các toàn nhà công cộng – nơi làm việc, các cửa hang, nhà hang, và nơi giải trí và các tiện nghi thể thao – có thể sử dụng xe lăn được.
To accommodate wheelchairs, building exteriors need wide sidewalks with curb cuts and ramps.
Để chứa được xe lăn, bên ngoài các tòa nhà cần những lề đường rộng, với những đường nâng lên và dốc xuống.
Automatic doors, including those on elevators , must be broad and remain open long enough for a person in a wheelchair to come and go with ease.
Các cửa tự động, bao gồm cả trong những thang máy, cần phải rộng rãi và mở đủ lâu cho một người trên xe lăn có thể vào và đi một cách dễ dàng.
In a building interior, corridors must be wide enough for a person in a wheel- chair and another person on foot to pass side by side, and carpeting should be firm enough for wheelchairs to roll over easily.
Ở những nội địa, hành lang tòa nhà cần đủ rộng cho một người trên xe lăn và những người đi bộ khác để đi ngang qua nhau được, và thảm phải đủ chắc để xe lăn có thể lăn qua dễ dàng.
Restrooms must be wheelchair accessible, too.
Các phòng vệ sinh cũng phải phù hợp với xe lăn.
Although many countries have made these improvements, many more have yet to follow their example.
Mặc dù rất nhiều quốc gia đã thực hiện những cải tiến này nhưng rất nhiều quốc gia khác vẫn chưa làm theo ví dụ của họ.
With appropriate technology, some wheelchair users can drive cars, although getting in and out of a vehicle while in a wheelchair usually necessitates a portable ramp.
Với công nghệ phù hợp, một vài người sử dụng xe lăn có thể lái xe, mặc dù việc đi vào và ra một phương tiện trong khi sử dụng xe lăn đòi hỏi một bờ dốc có thể mang theo được.
Many cities have subway and bus systems that accommodate wheelchairs, and the list is growing.
Rất nhiều thành phố có hệ thống tàu điện ngầm và xe buýt mà có thể chứa được xe lăn, và danh sách này đang tăng liên tục.
For example, Beijing updated its subway system for the 2008 Olympics, providing disabled riders there access to it for the first time.
Ví dụ, Bắc Kinh hiện đại hóa hệ thống tàu điện ngầm cho Thế vận hội 2008, cung cấp người đi xe khuyết tật ở đây được tiếp cận nó lần đầu tiên.
In most developing countries, a major concern is not so much wheel chair Accessibility as access to a wheelchair.
Ở hầu hết các quốc gia phát triển, một mối bân tâm chủ yếu là không có nhiều khả năng tiếp cận xe lăn cũng như quyền sử dụng xe lăn.
Growing public awareness is contributing to less expensive types of wheelchairs being designed for specific environments — for example, chairs capable of maneuvering across dirt roads and rugged terrain but lightweight and compact so they can fold up to fit in crowded spaces, such as the aisle of a bus.
Việc nâng cao nhân thức của cộng đồng đang góp phần vào những loại xe lăn rẻ tiền hơn được thiết kế cho những môi trường đặc biệt – ví dụ như, những chiếc ghế có khả năng điều khiển được qua những đoạn đường đất và địa hình gồ ghề nhưng nhẹ và nhỏ gọn do đó họ có thể gập lại để vừa với không gian đông đúc, chẳng hạn như lối đi của một chiếc xe buýt.
These wheelchairs also must be affordable and constructed of locally available materials for easy repair.
Những chiếc xe lăn này cũng cần phải có giá cả phải chăng và được dựng nên bởi những vật liệu địa phương có sẵn để dễ dàng sửa chữa.
The number of people needing a wheelchair is expected to increase by 22 percent over the next decade, with most of the increase coming in developing countries, where fewer than 1 percent of those in need now have access to one.
Số lượng người cần một chiếc xe lăn được dự đoán sẽ tăng 22 phần trăm vào thập kỉ tiếp theo, với hầu hết sự gia tăng tại các quốc gia phát triển, nơi có ít hơn 1 phần trăm những người tại thời điểm này được tiếp cận với nó.

The Invention of Variable-Pitch Propellers

Phát minh cánh quạt có thể điều chỉnh được



Until the late 1920s, airplane propellers were made of a single piece of wood attached at the center to the driveshaft of the engine.
Đến cuối thập niên 1920, cánh quạt máy bay được chế tạo bởi một mảnh gỗ duy nhất được gắn ở phần trung tâm của trục truyền lực của động cơ.
The tilt of the propeller, that is, how flatly it faced the wind, was fixed, which meant planes flew as if they had only one gear.
Độ nghiêng của cánh quạt, thứ mà bằng phẳng khi đối diện với gió, được cố định, có nghĩa là máy bay bay như là nó chỉ có một cơ cấu truyền động.
If the plane had a fine propeller, it traveled the entire time as if in first gear, working well on takeoff and landing but working inefficiently during sustained flight.
Nếu máy bay có một cánh quạt ổn định, thì nó di chuyển như là đang ở hộp số, nghĩa là hoạt động tốt khi cất cánh và hạ cánh nhưng hoạt động không hiệu quả trong suốt chuyến bay liên tục.
If the plane had a thick, coarse propeller, it traveled the entire time as if in high gear, working efficiently during sustained flight, but making takeoffs and landings dangerous and prolonged.
Nếu máy bay có một cánh quạt dày và thô, thì nó di chuyển như đang ở hiệu năng cao, nghĩa là hoạt động tốt trong suốt chuyến bay liên tục nhưng khi cất và hạ cánh lại nguy hiểm và kéo dài.
This inflexibility meant that commercial uses of such aircraft were limited because the planes could not carry heavy loads either safely or efficiently.
Tính thiếu linh hoạt này có nghĩa việc sử dụng các loại máy bay này vào mục đích thương mại bị giới hạn vì máy bay không thể chuyên chở trọng tải nặng một cách an toàn hoặc hiệu quả.
In 1922, Wallace Rupert Turnbull patented his latest invention, the Variable-Pitch propeller.
Năm 1922, Wallace Rupert Turnbull có bằng sáng chế cho phát minh mới nhất của mình, cánh quạt có thể điều chỉnh được.
His propeller in effect gave airplanes gears.
Cánh quạt của ông trên thực tế đã đem lại hộp số cho máy bay..
The propeller’s blades were separate from each other, attached at the driveshaft in the center, and could be moved independently or together to chop the air at different angles.
Phần cánh của cánh quạt được tách rời nhau, gắn ở trục truyền lực trung tâm, và có thể chuyển động độc lập hoặc cùng nhau để cắt giảm không khí tại các góc độ khác nhau.
The propellers could be tilted at takeoff and landing to act as if in first gear, chopping less air with each rotation, and could be tilted when cruising to act as if in high gear, chopping more air with each rotation.
Cánh quạt có thể nghiêng khi cất và hạ cánh để hoạt động như có hộp số, cắt bớt khí ở mỗi vòng quay, và có thể nghiêng khi bay chậm để hoạt động ở hiệu năng cao, chia nhiều không khí cho mỗi vòng quay.
With this Variable- Pitch propeller, planes could now take off and land more safely and reliably, carry varying weights, and handle greater variations in wind speed and turbulence.
Với loại cánh quạt có thể điều chỉnh được này, máy bay bây giờ có thể cất và hạ cánh an toàn và tin cậy hơn, mang vác trọng lượng khác nhau, và xử lý tốt hơn với các biến đổi của vận tốc gió và chuyển động hỗn loạn.
Turnbull was bom in New Brunswick in eastern Canada in 1876.
Turnbull được sinh ra ở New Brunswick tại miền Đông Canada vào năm 1876.
He studied mechanical engineering at Cornell, then continued his post-graduate studies in Europe, and returned to work at the Edison labs in New Jersey.
Ông học kỹ sư cơ khí tại Cornell, sau đó tiếp tục bậc nghiên cứu sau đại học ở Châu Âu, và trở về làm việc tại phòng thí nghiệm Edison ở New Jersey.
In 1902, just one year before the Wright brothers made their historic flight, Turnbull went back home, set up his own lab in a barn, and started running his own aviation experiments.
Năm 1902, chỉ một năm trước khi anh em nhà Wright làm nên chuyến bay lịch sử, Turnbull trở về nhà, lập phòng thí nghiệm của riêng mình trong một kho thóc, và bắt đầu tiến hành thử nghiệm hàng không của mình.
To begin, Turnbull needed a wind tunnel. He built a wind tunnel, the first in the world, out of packing materials.
Để bắt đâù, Turnbull cần một đường hầm gió. Ông xây dựng một đường hầm gió, đầu tiên trên thế giới, bằng các vật liệu đóng gói.
In it, he tested different designs for propellers and wings; his research is the basis for many of the successful designs still in use today.
Trong đường hầm đó, ông đã thử nghiệm các thiết kế khác nhau về cánh quạt và cánh máy bay; nghiên cứu của ông là cơ sở cho nhiều thiết kế thành công vẫn được sử dụng cho đến ngày hôm nay.
Alone in his barn, Turnbull designed and tested his Variable-Pitch propeller.
Một mình trong kho thóc, Turnbull đã thiết kế và thử nghiệm cánh quạt có thể điều chỉnh được của ông.
It was tested successfully in flight in Borden, Ontario, on June 6, 1927.
Nó đã được thử nghiệm thành công trong chuyến bay ở Borden, Ontario, vào ngày 6 tháng 6 năm 1927.
Turnbull spent his life experimenting and designing for the new science of aviation in his barn in Rothesay.
Turnbull dành phần đời của mình để thử nghiệm và thiết kế cho ngành khoa học hàng không mới trong kho thóc của mình ở Rothesay.
He sometimes conferred with fellow aviation enthusiast Alexander Graham Bell in Nova Scotia, but for the most part, he worked in isolation.
Thỉnh thoảng ông trao đổi với người bạn có niềm đam mê với hàng không là Alexander Graham Bell ở Nova Scotia, nhưng trong phần lớn thời gian, ông làm việc đơn lẻ một mình.
Unlike most engineers, he chose not to work in a university laboratory or in a lab such as Edison's, where he would have been supported by like-minded engineers and physicists.
Không giống như phần lớn kỹ sư, ông chọn không làm việc ở phòng thí nghiệm của trường đại học hoặc ở một phòng thí nghiệm như của Edison, nơi ông sẽ được hỗ trợ bởi những kỹ sư và nhà vật lý cùng chí hướng.
Instead, he spent his adult life in a barn he equipped himself.
Thay vào đó, ông dành phần đời trưởng thành ở trong một kho thóc mà ông tự trang bị cho chính mình.
Depending only on his intelligence, curiosity, and work ethic, he revolutionized flight. He is honored in Canada as a pioneer in aviation and a genius in the study of aerodynamics.
Dựa vào trí thông minh, tính tò mò, và đạo đức nghề nghiệp, ông đã cách mạng hóa chuyến bay. Ông được vinh danh tại Canada như người tiên phong trong ngành công nghiệp hàng không và một thiên tài trong lĩnh vực khí động lực học.


The Transatlantic Cable

Cáp xuyên Đại Tây Dương




Laying the transatlantic cable was the culmination of the unflagging perseverance of one man leading like-minded men, of disparate technical and scientific advances, and of the need for faster communication.
Việc lắp đặt đường dây cáp xuyên Đại Tây Dương là đỉnh cao của sự kiên trì không ngừng của một nhóm người đồng lòng cùng chí hướng, của những tiến bộ khoa học và kỹ thuật khác nhau, và của sự cần thiết trong việc giao tiếp nhanh hơn.
The first attempts at laying the cable in the 1850s, each of which cost an enormous amount of money, failed utterly.
Những nỗ lực đầu tiên của việc đặt trạm dây cáp là vào những năm 1850, mỗi lần đều tốn một lượng tiền khổng lồ, nhưng lại bị thất bại hoàn toàn.
Yet as technology and science improved, and the need for faster communication increased, perseverance finally paid off.
Tuy nhiên, khi khoa học và công nghệ được cải thiện, và nhu cầu giao tiếp nhanh hơn đã ngày càng tăng, thì sự kiên trì cuối cùng đã được đền đáp.
The man who rallied support and raised money for the transatlantic cable venture was Cyrus Field, a New York businessman, who started the New York, Newfoundland, and London Telegraph Company in 1854.
Người đàn ông đã tập hợp hỗ trợ và quyên góp tiền cho dự án xây dựng cáp xuyên Đại Tây Dương là Cyrus Field, một doanh nhân người New York, người đã bắt đầu công ty New York, Newfoundland và London Telegraph năm 1854.
For the next twelve years, Field raised money and expectations in North America and England for repeated attempts at laying a cable, despite catastrophic cable breaks and a formal inquiry when the first cable stopped working within days.
Trong 12 năm tiếp theo, Field đã gây quỹ, quyên góp tiền và kỳ vọng ở Bắc Mỹ và Anh cho những nỗ lực lặp đi lặp lại trong việc lắp đặt cáp, mặc dù có tình trạng cáp bị đứt nghiêm trọng và một cuộc điều tra chính thức diễn ra khi sợi cáp đầu tiên ngừng hoạt động trong vòng vài ngày.
The scientific and technological advances began with electricity, the study of which was attracting the greatest minds of the age.
Những tiến bộ khoa học và công nghệ được khởi đầu từ điện, nghiên cứu về điện đã thu hút những trí tuệ vĩ đại nhất của thời đại đó.
Samuel Morse invented a code that made it possible to send information over electric wires, and he made the first successful transmission in 1842.
Samuel Morse đã phát minh ra một mã có thể gửi thông tin qua đường điện, và ông đã thực hiện việc truyền tin thành công lần đầu tiên vào năm 1842.
The next year, d’Alameida, a Portuguese engineer, announced the use of gutta-percha, a rubberlike sap from the gutta tree, as an insulation for wires.
Năm tiếp theo, d'Almeida, một kỹ sư người Bồ Đào Nha, đã công bố việc sử dụng gutta-percha (nhựa két), một loại cao su như nhựa cây từ cây gutta, để làm vật liệu cách nhiệt cho dây điện.
Thus, two of the requisites for an underwater cable were met.
Vì vậy, hai trong số các điều kiện tiên quyết cho một dây cáp dưới nước đã được đáp ứng.
In the next several years, telegraph cables were laid in Atlantic Canada, across the English Channel and around Europe, and across the United States.
Trong những năm tiếp theo, các loại cáp điện báo được đặt ở phần biển Đại Tây Dương Canada, qua eo biển Anh (~eo biển Manche) khắp châu Âu, và trên khắp nước Mỹ.
In 1857, the company Field founded set out to lay the cable that had taken months and almost a million dollars to make.
Trong năm 1857, công ty của ông Field đã mất hàng tháng trời để lắp đặt cáp và gần một triệu đô la để sản xuất chúng.
The cable was made of 340,000 miles of copper and iron wire and three tons of gutta-percha insulation, too much for one ship to carry.
Sợi cáp được làm bằng 340.000 dặm dây đồng và sắt, và ba tấn nhựa két để cách nhiệt, một khối lượng quá lớn để một con tàu có thể vận chuyển.
The cable was divided between two ships, each towed by another, all four provided by the British and American navies.
Dây cáp được phân chia giữa hai tàu, mỗi tàu được kéo bởi một tàu khác, tất cả bốn tàu do hải quân Anh và Mỹ cung cấp.
After only 255 miles of cable had been laid, the cable stopped transmitting and then snapped, sinking to the depths of the ocean.
Sau khi chỉ 255 dặm của cáp đã được đặt xuống biển, sợi cáp ngừng truyền và sau đó bị gãy, rồi bị chìm tới đáy của đại dương.
The second attempt was made in 1858, beginning at the midpoint of the Atlantic, from which each ship lay cable as she sailed to her home shores.
Một nỗ lực thứ hai được thực hiện vào năm 1858, bắt đầu tại điểm giữa của Đại Tây Dương, từ đó mỗi con tàu đặt một dây cáp khi chúng di chuyển về phía bờ biển của mình.
Again, the cable inexplicably stopped working.
Một lần nữa,dây cáp ngừng hoạt động một cách không giải thích được.
They tried again a month later, beginning again from the middle and sailing in opposite directions.
Họ thử lại một tháng sau đó, bắt đầu lại từ giữa và đi theo hướng ngược lại.
This time, success! Queen Victoria sent a message to President Buchanan, and both countries celebrated. Within hours, however, the signal began failing.
Lần này, họ đã thành công! Nữ hoàng Victoria gửi một sứ điệp cho Tổng thống Buchanan, và cả hai quốc gia tổ chức ăn mừng vì sự kiện đó. Tuy nhiên, trong vòng vài giờ, tín hiệu đã bắt đầu yếu dần.
To compensate for the fading transmissions, Whitehouse, the American engineer, transmitted messages at higher voltages, eventually burning out the cable.
Để bù đắp cho việc đường truyền đang dần yếu đi, Whitehouse, một kỹ sư người Mỹ, đã truyền tải những tin nhắn ở điện áp cao hơn, cuối cùng làm cho cáp bị đốt cháy.
Once a hero, Field was now vilified. Work on the transatlantic cable was halted because of the American Civil War.
Đã từng được tôn vinh như một vị anh hùng, lúc bấy giờ Field lại bị phỉ báng. Công việc trên cáp xuyên Đại Tây Dương đã bị dừng lại vì cuộc nội chiến Mỹ.
During the war, the telegraph became indispensable, and enthusiasm for a transatlantic cable mounted.
Trong chiến tranh, điện báo trở thành phương tiện không thể thiếu, và niềm nhiệt huyết dành cho việc đặt cáp xuyên Đại Tây Dương lại dấy lên.
In Scotland, William Thomson, who would later be knighted Lord Kelvin for his work, corrected the design flaws in Whitehouse’s cable.
Tại Scotland, William Thomson, người sau này được phong tước Lord Kelvin cho công trình của mình, đã sửa chữa các lỗi thiết kế trong cáp của Whitehouse.
Kelvin also designed a mirror-galvanometer that could detect weak currents, thus allowing lower voltages and weaker currents to transmit information.
Kelvin cũng đã thiết kế một máy đo điện kế gương có thể phát hiện các dòng điện yếu, do đó cho phép điện áp thấp hơn và các dòng điện yếu hơn có thể truyền tải thông tin.
In 1866, the world’s largest steamship laid Kelvin's new cable, an unqualified success. Field’s perseverance had triumphed in the end.
Năm 1866, tàu hơi nước lớn nhất thế giới đã lắp đặt loại dây cáp mới của Kelvin, dù đó là một thành công về mọi mặt. Sự kiên trì của Field cuối cùng cũng dành được vinh quang.


NGỌC THU

ARTCANDY SHOP NGỌC THU -     Trên   bước   đường   THÀNH   CÔNG , không   có   dấu   chân   của   những   kẻ   LƯỜI   BIẾNG . ...