Striking back at lightning with lazers: Chống sét bằng tia lazer

 

A

Seldom is the weather more dramatic than when thunderstorms strike.
Thời tiết hiếm khi có thay đổi mãnh liệt hơn như khi sét đánh.

Their electrical fury inflicts death or serious injury on around 500 people each year in the United States alone.
Sự mãnh liệt của dòng điện đã gây ra ra các thương vong hay những tổn thương nghiêm trọng cho khoảng 500 người mỗi năm chỉ riêng ở Mỹ.

As the clouds roll in, a leisurely round of golf can become a terrifying dice with death - out in the open, a lone golfer may be a lightning bolt’s most inviting target.
Khi những đám mây kéo đến nhiều, một trận golf giải trí ở ngoài trời có thể trở thành một trò may rủi với cái chết, một người chơi golf có thể là một mục tiêu thu hút nhất của sét.

And there is damage to property too.
Và cũng có sự phá hủy đến các tòa nhà.

Lightning damage costs American power companies more than $100 million a year.
Sự phá hủy của sét khiến cho các công ty năng lượng của Mỹ mất hơn 100 triệu dollar mỗi năm.
 
B
But researchers in the United States and Japan are planning to hit back.
Nhưng những nhà nghiên cứu ở Mỹ và Nhật bản đang lên kế hoạch để đối phó với vấn nạn này.

Already in laboratory trials they have tested strategies for neutralising the power of thunderstorms, and this winter they will brave real storms, equipped with an armoury of lasers that they will be pointing towards the heavens to discharge thunderclouds before lightning can strike.
Trong các thử nghiệm ở phòng thí nghiệm họ đã thử nghiệm các chiến lược để trung hòa sức mạnh của sấm sét, và mùa đông này họ sẽ đương đầu với những cơn bão thật sự, được trang bị với một kho vũ khí laze mà họ sẽ hướng lên bầu trời để phóng mây dông trước khi sấm chớp có thể đánh.

C

The idea of forcing storm clouds to discharge their lightning on command is not new.
Ý tưởng buộc các đám mây bão phóng thích tia sét theo ý của mình không phải là mới.

In the early 1960s, researchers tried firing rockets trailing wires into thunderclouds to set up an easy discharge path for the huge electric charges that these clouds generate.
Những năm đầu 1960, những nhà nghiên cứu đã thử bắn tên lửa vào mây dông để tạo đường dẫn để phóng thích dễ dàng cho những vật tích điện lớn mà những đám mây tạo ra.

The technique survives to this day at a test site in Florida run by the University of Florida, with support from the Electrical Power Research Institute (EPRI), based in California.
Kỹ thuật này tồn tại cho đến ngày nay ở một điểm kiểm tra ở Floria thực hiện bởi Đại học Floria, với sự ủng hộ từ Viện nghiên cứu năng lượng điện năng (EPRI), trụ sở tại California.

EPRI, which is funded by power companies, is looking at ways to protect the United States’ power grid from lightning strikes.
Viện nghiên cứu năng lượng điện năng được tài trợ bởi các công ty năng lượng đang tìm cách để bảo vệ lưới điện của Mỹ khỏi sét.

‘We can cause the lightning to strike where we want it to using rockets,’ says Ralph Bernstein, manager of lightning projects at EPRI.
”Chúng ta có thể sử dụng những tia chớp để tấn công nơi mà chúng ta muốn nó dùng tên lửa” Ralph Bernstein nói, giám đốc của dự án tia chớp ở EPRI cho biết.

The rocket site is providing precise measurements of lightning voltages and allowing engineers to check how electrical equipment bears up.
Vị trí tia chớp cung cấp số đo chính xác điện áp của sấm sét và cho phép kỹ sư kiểm tra các thiết bị điện chống đỡ như thế nào.

D

But while rockets are fine for research, they cannot provide the protection from lightning strikes that everyone is looking for.
Nhưng trong khi tên lửa được sử dụng tốt cho việc nghiên cứu, thì họ không thể cung cấp việc đề phòng khỏi bị khỏi bị sét đánh mà mọi người đang tìm kiếm.

The rockets cost around $1,200 each, can only be fired at a limited frequency and their failure rate is about 40 per cent.
Những tên lửa có giá khoảng $1,200 mỗi cái, chỉ có thể được bắn ở một tần số hạn chế và tỷ lệ thất bại của chúng là khoảng 40 phần trăm.

And even when they do trigger lightning, things still do not always go according to plan.
Và ngay cả khi chúng kích hoạt sét, mọi thứ vẫn không luôn luôn đi theo kế hoạch.

‘Lightning is not perfectly well behaved,’ says Bernstein.
"Sét không hoàn toàn hoạt động tốt, 'Bernstein nói.

‘Occasionally, it will take a branch and go someplace it wasn’t supposed to go".
"Thỉnh thoảng, nó sẽ mất một nhánh và đến một nơi nào đó nó không có ý định đến".

E

And anyway, who would want to fire streams of rockets in a populated area? ‘What goes up must come down,’ points out Jean-Claude Diels of the University of New Mexico.
Dù sao thì ai lại muốn phóng một loạt tên lửa ở khu vực đông dân cư cơ chứ? Jean-Claude Diels, đại học New Mexico, đã từng chỉ ra rằng 'Cái gì đi lên cũng sẽ đi xuống,'.

Diels is leading a project, which is backed by EPRI, to try to use lasers to discharge lightning safely- and safety is a basic requirement since no one wants to put themselves or their expensive equipment at risk.
Diels đang tiến hành một dự án với sự hỗ trợ của EPRI, dự án này nghiên cứu sử dụng tia laser để phóng thích sét an toàn, và an toàn là yêu cầu cơ bản vì không ai muốn đặt mình hay các thiết bị đắt tiền trong nguy hiểm.

With around $500,000 invested so far, a promising system is just emerging from the laboratory.
Với khoảng 500,000$ tiền đầu tư, cho đến nay người ta đã thiết kế được một hệ thống phòng chống sét đầy hứa hẹn từ phòng thí nghiệm.

F

The idea began some 20 years ago, when high-powered lasers were revealing their ability to extract electrons out of atoms and create ions.
Ý tưởng này bắt đầu từ 20 năm trước, khi những tia lazer năng lượng cao cho thấy khả năng của nó có thể tách những electron ra khỏi nguyên tử và tạo ra các ion.

If a laser could generate a line of ionisation in the air all the way up to a storm cloud, this conducting path could be used to guide lightning to Earth, before the electric field becomes strong enough to break down the air in an uncontrollable surge.
Nếu một tia lazer có thể tạo ra một dòng ion hóa trong không khí, và đi lên đám mây bão, con đường này có thể được sử dụng để hướng sét tới Trái Đất, trước khi dòng điện trở nên đủ mạnh để xé toạc không khí một cách đột ngột không kiểm soát được.

To stop the laser itself being struck, it would not be pointed straight at the clouds.
Để ngăn chặn tia laze tự đánh vào nó, nó sẽ không được nhắm thẳng vào các đám mây.

Instead it would be directed at a mirror, and from there into the sky.
Thay vào đó nó được nhắm thẳng vào một cái gương, và từ đó đi lên bầu trời.

The mirror would be protected by placing lightning conductors close by.
Chiếc gương này sẽ được bảo vệ bằng cách đặt gần dây dẫn sét.

Ideally, the cloud-zapper (gun) would be cheap enough to be installed around all key power installations, and portable enough to be taken to international sporting events to beam up at brewing storm clouds.
Lý tưởng thì bộ súng này sẽ đủ rẻ để có thể được cài vào tất cả thiết bị năng lượng chính, và dễ dàng được đưa vào những sự kiện thể thao quốc tế để chiếu lên những đám mây bão.

G

However, there is still a big stumbling block.
Tuy nhiên, vẫn có một hòn đá lớn cản đường.

The laser is no nifty portable: it’s a monster that takes up a whole room.
Lazer không thể di động dễ dàng: Nó là một tên quái vật có thể chiếm lấy cả không gian.

Diels is trying to cut down the size and says that a laser around the size of a small table is in the offing.
Diels đang cố gắng cắt giảm kích cỡ và nói rằng lazer với kích cỡ của một cái bàn nhỏ sắp xảy ra.

He plans to test this more manageable system on live thunderclouds next summer.
Ông định kiểm tra một hệ thống có thể quản lí dễ dàng hơn trong đám mây dông thực sự vào mùa hè tới.

H

Bernstein says that Diels’s system is attracting lots of interest from the power companies.
Bernstein nói rằng hệ thống của Diels đang thu hút nhiều sự chú ý của các công ty năng lượng.

But they have not yet come up with the $5 million that EPRI says will be needed to develop a commercial system, by making the lasers yet smaller and cheaper.
Tuy nhiên họ chưa quyết định là với 5 triệu đô mà EPRI cho rằng sẽ cần để phát triển một hệ thống thương mại, bằng làm cho những tia laser nhỏ hơn và rẻ hơn.

"I cannot say I have money yet, but I’m working on it,’ says Bernstein.
"Tôi không thể nói rằng tôi không có tiền tuy nhiên tôi vẫn đang xoay sở với nó” ông Bernstein nói.

He reckons that the forthcoming field tests will be the turning point - and he’s hoping for good news.
Ông cho rằng những thí nghiệm trong lĩnh vực sắp tới sẽ là bước ngoặt - và ông ta đang hy vọng sẽ gặp được tin tốt lành.

Bernstein predicts ‘an avalanche of interest and support’ if all goes well.
Bernstein dự đoán “một loạt các đầu tư và hỗ trợ dồn dập” sẽ đến nếu mọi việc suôn sẻ.

He expects to see cloud-zappers eventually costing $50,000 to $100,000 each.
Ông ta hy vọng sẽ làm được chi phí của một bộ súng cuối cùng chỉ còn 50,000 đến 100,000$.

I

Other scientists could also benefit.
Các nhà khoa học khác cũng được hưởng lợi.

With a lightning ‘switch’ at their fingertips, materials scientists could find out what happens when mighty currents meet matter.
Với một tia chớp 'chuyển đổi' dễ dàng, các nhà khoa học vật liệu có thể tìm hiểu những gì sẽ xảy ra khi dòng điện cực mạnh gặp vấn đề.

Diels also hopes to see the birth of ‘interactive meteorology’ - not just forecasting the weather but controlling it.
Diels cũng hy vọng sẽ cho ra ra đời ngành "khí tượng tương tác '- không chỉ là dự báo thời tiết mà còn kiểm soát được nó.

‘If we could discharge clouds, we might affect the weather,’ he says.
"Nếu chúng ta có thể xua đi những đám mây, chúng ta có thể tác động lên thời tiết," ông nói.

J

And perhaps, says Diels, we’ll be able to confront some other meteorological menaces.
Và có lẽ, Diels nói, chúng ta sẽ có thể đối đầu với một số mối đe dọa khí tượng khác.

‘We think we could prevent hail by inducing lightning,’ he says.
"Chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể ngăn chặn mưa đá bằng cách gây sét", ông nói.

Thunder, the shock wave that comes from a lightning flash, is thought to be the trigger for the torrential rain that is typical of storms.
Sấm sét, sóng xung kích mà đến từ một tia sét đánh, được cho là nguyên nhân dẫn đến những cơn mưa xối xả - điển hình của các cơn bão.

A laser thunder factory could shake the moisture out of clouds, perhaps preventing the formation of the giant hailstones that threaten crops.
Một nhà máy sản xuất sấm sét lazer có thể rút phần ẩm ra khỏi đám mây, có lẽ để ngăn ngừa sự hình thành của các hạt mưa đá lớn khổng lồ đe dọa mùa màng.

With luck, as the storm clouds gather this winter, laser-toting researchers could, for the first time, strike back.
Nếu may mắn, khi những đám mây trong bão được thu thập trong mùa đông này, các nhà nghiên cứu lazer có thể, lần đầu tiên, tấn công trở lại nó.

Collecting Ant Specimens

 

A

Collecting ants can be as simple as picking up stray ones and placing them in a glass jar, or as complicated as completing an exhaustive survey of all species present in an area and estimating their relative abundances.

Thu thập kiến ​​có thể đơn giản như nhặt những con lạc đường và đặt chúng vào bình thủy tinh, hoặc phức tạp như khi hoàn thành một cuộc khảo sát đầy đủ về tất cả các loài hiện diện trong một khu vực và ước lượng độ phong phú tương đối của chúng.

The exact method used will depend on the final purpose of the collections.
Phương pháp chính xác được sử dụng sẽ phụ thuộc vào mục đích cuối cùng của bộ sưu tập.

For taxonomy, or classification, long series, from a single nest, which contain all castes (workers, including majors and minors, and, if present, queens and males) are desirable, to allow the determination of variation within species.
Đối với phân loại, hoặc phân loại, chuỗi dài, từ một tổ duy nhất có chứa tất cả các hiến pháp (người lao động, bao gồm các chuyên ngành và người vị thành niên, và, nếu có, hoàng hậu và nam giới) là mong muốn, để cho phép xác định biến thể trong loài.

For ecological studies, the most important factor is collecting identifiable samples of as many of the different species present as possible.
Đối với các nghiên cứu về sinh thái, yếu tố quan trọng nhất là thu thập các mẫu có thể nhận dạng được của nhiều loài khác nhau hiện nay có thể.

Unfortunately, these methods are not always compatible.
Thật không may, những phương pháp này không phải lúc nào cũng tương thích.

The taxonomist sometimes overlooks whole species in favour of those groups currently under study, while the ecologist often collects only a limited number of specimens of each species, thus reducing their value for taxonomic investigations.
Các nhà phân loại học đôi khi nhìn nhận toàn bộ loài đối với những nhóm hiện đang được nghiên cứu, trong khi nhà sinh thái học chỉ thu thập được một số mẫu vật của mỗi loài, do đó làm giảm giá trị của chúng trong các điều tra phân loại.

B

To collect as wide a range of species as possible, several methods must be used.
Để thu thập càng nhiều loài càng tốt, phải sử dụng một số phương pháp.

These include hand collecting, using baits to attract the ants, ground litter sampling, and the use of pitfall traps.
Chúng bao gồm thu thập bằng tay, sử dụng mồi để thu hút các kiến, lấy mẫu đất và sử dụng bẫy pitfall.

Hand collecting consists of searching for ants everywhere they are likely to occur.
Thu thập bằng tay bao gồm tìm kiếm kiến ​​ở mọi nơi mà chúng có thể xảy ra.

This includes on the ground, under rocks, logs or other objects on the ground, in rotten wood on the ground or on trees, in vegetation, on tree trunks and under bark.
Điều này bao gồm trên mặt đất, dưới đá, các khúc gỗ hoặc các vật khác trên mặt đất, bằng gỗ thối trên mặt đất hoặc trên cây, trong thực vật, trên thân cây và dưới vỏ cây.

When possible, collections should be made from nests or foraging columns and at least 20 to 25 individuals collected.
Khi có thể, các bộ sưu tập phải được làm từ các tổ hoặc cột tìm kiếm và ít nhất 20 đến 25 cá nhân được thu thập.

This will ensure that all individuals are of the same species, and so increase their value for detailed studies.
Điều này sẽ đảm bảo rằng tất cả các cá thể đều thuộc cùng một loài, và do đó tăng giá trị cho các nghiên cứu chi tiết.

Since some species are largely nocturnal, collecting should not be confined to daytime.
Vì một số loài là vào ban đêm, nên việc thu thập không nên chỉ giới hạn ở ban ngày.

Specimens are collected using an aspirator (often called a pooter), forceps, a fine, moistened paint brush, or fingers, if the ants are known not to sting.
Mẫu được thu thập bằng cách sử dụng một máy hút (thường được gọi là pooter), kẹp, một bàn chải mịn, ẩm, hoặc ngón tay, nếu kiến ​​không biết là sting.

Individual insects are placed in plastic or glass tubes (1.
Côn trùng cá thể được đặt trong ống nhựa hoặc thủy tinh (dung tích 1.

5-3-0 ml capacity for small ants, 5-8 ml for larger ants) containing 75% to 95% ethanol.
5-3-0 ml cho kiến ​​nhỏ, 5-8 ml đối với các con kiến ​​lớn) chứa 75% đến 95% ethanol.

Plastic tubes with secure tops are better than glass because they are lighter, and do not break as easily if mishandled.
Ống nhựa có nắp an toàn tốt hơn kính vì chúng nhẹ hơn và không dễ vỡ nếu không được xử lý.

C

Baits can be used to attract and concentrate foragers.
Baits có thể được sử dụng để thu hút và tập trung những người rình rập.

This often increases the number of individuals collected and attracts species that are otherwise elusive.
Điều này thường làm tăng số lượng cá thể thu thập và thu hút được các loài mà nếu không thì sẽ khó nắm bắt.

Sugars and meats or oils will attract different species and a range should be utilised.
Đường và thịt hoặc dầu sẽ thu hút các loài khác nhau và phạm vi nên được sử dụng.

These baits can be placed either on the ground or on the trunks of trees or large shrubs.
Những mồi này có thể được đặt trên mặt đất hoặc trên các thân cây hoặc bụi cây lớn.

When placed on the ground, baits should be situated on small paper cards or other flat, light-coloured surfaces, or in test-tubes or vials.
Khi đặt trên mặt đất, mồi nên được đặt trên giấy nhỏ hoặc các mặt phẳng, ánh sáng màu khác, hoặc trong ống nghiệm hoặc lọ.

This makes it easier to spot ants and to capture them before they can escape into the surrounding leaf litter.
Điều này làm cho dễ dàng hơn để phát hiện ra kiến ​​và nắm bắt chúng trước khi chúng có thể trốn vào lều rác xung quanh.

D

Many ants are small and forage primarily in the layer of leaves and other debris on the ground.
Nhiều kiến ​​là nhỏ và thức ăn gia súc chủ yếu ở lớp lá và các mảnh vụn khác trên mặt đất.

Collecting these species by hand can be difficult.
Thu thập các loài này bằng tay có thể rất khó khăn.

One of the most successful ways to collect them is to gather the leaf litter in which they are foraging and extract the ants from it.
Một trong những cách thành công nhất để thu thập chúng là thu thập các lát lá trong đó họ đang tìm kiếm và trích xuất các kiến ​​từ nó.

This is most commonly done by placing leaf litter on a screen over a large funnel, often under some heat.
Điều này thường được thực hiện bằng cách đặt rác trên một màn hình trên một phễu lớn, thường dưới hơi nóng.

As the leaf litter dries from above, ants (and other animals) move downward and eventually fall out the bottom and are collected in alcohol placed below the funnel.
Khi mùn lá khô từ trên cao, kiến ​​(và các động vật khác) di chuyển xuống và cuối cùng rơi ra phía dưới và được thu thập trong rượu đặt bên dưới phễu.

This method works especially well in rain forests and marshy areas.
Phương pháp này đặc biệt hiệu quả trong rừng mưa và vùng đầm lầy.

A method of improving the catch when using a funnel is to sift the leaf litter through a coarse screen before placing it above the funnel.
Một phương pháp để cải thiện việc bắt khi sử dụng một kênh là để sàng rác rác thông qua một màn hình thô trước khi đặt nó lên phía trên ống khói.

This will concentrate the litter and remove larger leaves and twigs.
Điều này sẽ tập trung rác thải và loại bỏ các lá và cành cây lớn hơn.

It will also allow more litter to be sampled when using a limited number of funnels.
Nó cũng sẽ cho phép nhiều mẫu hơn được lấy mẫu khi sử dụng một số lượng kênh hạn chế.

E

The pitfall trap is another commonly used tool for collecting ants.
Cái bẫy pitfall là một công cụ thường được sử dụng để thu thập kiến.

A pitfall trap can be any small container placed in the ground with the top level with the surrounding surface and filled with a preservative.
Một cái bẫy pitfall có thể là bất cứ cái thùng nhỏ nào được đặt trong lòng đất với mức cao nhất với bề mặt xung quanh và chứa chất bảo quản.

Ants are collected when they fall into the trap while foraging.
Kiến được thu thập khi chúng rơi vào bẫy trong khi tìm kiếm.

The diameter of the traps can vary from about 18 mm to 10 cm and the number used can vary from a few to several hundred.
Đường kính của bẫy có thể thay đổi từ khoảng 18 mm đến 10 cm và số lượng sử dụng có thể thay đổi từ vài đến vài trăm.

The size of the traps used is influenced largely by personal preference (although larger sizes are generally better), while the number will be determined by the study being undertaken.
Kích thước của bẫy được sử dụng chủ yếu là do sở thích cá nhân (mặc dù kích thước lớn hơn nói chung là tốt hơn), trong khi số lượng sẽ được xác định bởi nghiên cứu đang được tiến hành.

The preservative used is usually ethylene glycol or propylene glycol, as alcohol will evaporate quickly and the traps will dry out.
Chất bảo quản được sử dụng thường là ethylene glycol hoặc propylen glycol, vì rượu sẽ bay hơi nhanh chóng và bẫy sẽ khô.

One advantage of pitfall traps is that they can be used to collect over a period of time with minimal maintenance and intervention.
Một lợi thế của bẫy pitfall là chúng có thể được sử dụng để thu thập qua một khoảng thời gian với sự bảo trì và can thiệp tối thiểu.

One disadvantage is that some species are not collected as they either avoid the traps or do not commonly encounter them while foraging.
Một bất lợi là một số loài không được thu thập vì họ hoặc tránh các bẫy hoặc thường không gặp chúng trong khi tìm kiếm.

Air traffic control in the USA: KIỂM SOÁT KHÔNG LƯU Ở MỸ


A

An accident that occurred in the skies over the Grand Canyon in 1956 resulted in the establishment of the Federal Aviation Administration (FAA) to regulate and oversee the operation of aircraft in the skies over the United States, which were becoming quite congested.     

Một vụ tai nạn đã xảy ra trên vùng trời Grand Canyon vào năm 1956 đã dẫn tới sự thành lập của Cục quản lý hàng không liên bang (FAA) để điều phối và quan sát sự vận hành của máy bay trên khắp các vùng trời nước Mỹ, nơi mà đang trở nên khá chật chội.


The resulting structure of air traffic control has greatly increased the safety of flight in the United States, and similar air traffic control procedures arealso in place over much of the rest of the world.      
    

Kết quả của cấu trúc kiểm soát không lưu đã gia tăng đáng kể sự an toàn của các chuyến bay ở Mỹ, và các thủ tục kiểm soát không lưu tương tự cũng đang diễn ra ở nhiều nơi khác trên thế giới.

B

Rudimentary air traffic control (ATC) existed well before the Grand Canyon disaster.           

Kiểm soát không lưu thô sơ (ATC) đã tồn tại từ trước thảm họa Grand Canyon.


As early as the 1920s, the earliest air traffic controllers manually guided aircraft in the vicinity of the airports, using lights and flags, while beacons and flashing lights were placed along cross-country routes to establish the earliest airways.

Vào đầu những năm 1920, những người kiểm soát không lưu đầu tiên thường hướng dẫn máy bay trong vùng lân cận sân bay, bằng cách sử dụng đèn và cờ, trong khi đó các cảnh báo và đèn nhấp nháy được đặt ở các tuyến đường xuyên quốc gia để thiết lập các đường bay đầu tiên.


However, this purely visual system was useless in bad weather, and, by the 1930s, radio communication was coming into use for ATC. 

Tuy nhiên, hệ thống dựa hoàn toàn vào thị giác này vô dụng trong điều kiện thời tiết xấu, và, sau những năm 1930, thông tin vô tuyến đã được đưa vào sử dụng cho ATC.


The first region to have something approximating today’s ATC was New York City, with other major metropolitan areas following soon after.

Khu vực đầu tiên để có những thứ tương tự như ATC ngày nay là thành phố New York, tiếp sau đó là với những khu vực đô thị lớn khác.

C

In the 1940s, ATC centres could and did take advantage of the newly developed radar and improved radio communication brought about by the Second World War, but the system remained rudimentary.          

Trong những năm 1940, các trung tâm ATC có thể đã tận dụng lợi thế của các radar mới được phát triển và đã cả thiện hệ thống vô tuyến đã được mang ra từ Thế chiến thứ 2, nhưng hệ thống vẫn thô sơ.


It was only after the creation of the FAA that full-scale regulation of America’s airspace took place, and this was fortuitous, for the advent of the jet engine suddenly resulted in a large number of very fast planes, reducing pilots’ margin of error and practically demanding some set of rules to keep everyone well separated and operating safely in the air.

Chỉ sau khi có sự thành lập của FAA thì sự điều khiển của không phận Mỹ mới được tiến hành, và điều này thật tình cờ cho động cơ phản lực, đột ngột dẫn tới sự phát triển của một số lượng lớn máy bay tốc độ cao, làm giảm lỗi sai của phi công và thực tế đòi hỏi một vài quy tắc để giữ khoảng cách của mọi người và hoạt động an toàn trên không.

D


Many people think that ATC consists of a row of controllers sitting in front of their radar screens at the nation’s airports, telling arriving and departing traffic what to do.    

Rất nhiều người nghĩ rằng ATC bao gồm một hàng các kiểm soát viên ngồi trước màn hình radar của họ, chỉ dẫn các việc phải làm cho không lưu tới và khởi hành.


This is a very incomplete part of the picture.

Đây quả thực là một mảnh ghép chưa hoàn thiện của bức tranh.


The FAA realised that the airspace over the United States would at any time have many different kinds of planes, flying for many different purposes, in a variety of weather conditions, and the same kind of structure was needed to accommodate all of them.  

FAA nhận ra rằng không phận trên khắp nước Mỹ bất cứ khi nào cũng có nhiều loại máy bay khác nhau, bay với các mục đích khác nhau, trong những điều kiện thời tiết khác nhau và trong cùng một cấu trúc nên cần thiết phải sắp xếp tất cả chúng lại.

E

To meet this challenge, the following elements were put into effect.           

Để đối mặt với thách thức này, các yếu tố sau đây đã được đưa vào.


First, ATC extends over virtually the entire United States.   

Đầu tiên, ATC mở rộng theo dõi trên toàn bộ nước Mỹ.


In general, from 365m above the ground and higher, the entire country is blanketed by controlled airspace.    

Nói chung, từ độ cao 365m trở lên so với mặt đất, toàn bộ quốc gia sẽ bị bao phủ bởi không phận bị kiểm soát.


In certain areas, mainly near airports, controlled airspace extends down to 215m above the ground, and, in the immediate vicinity of an airport, all the way down to the surface.       
    

Ở một số vùng đặc biệt, chủ yếu gần các sân bay, không phận bị kiểm soát nới rộng xuống 215m so với mặt đất, và, trong khu vực lân cận sân bay, tất cả lối xuống mặt đất.


Controlled airspace is that airspace in which FAA regulations apply.      
    

Không phận được kiểm soát là không phận mà FAA quy định áp dụng.


Elsewhere, in uncontrolled airspace, pilots are bound by fewer regulations.  
         

Ở những nơi khác, trong không phận không được kiểm soát, phi công bị rẳng buộc bởi ít quy định hơn.


In this way, the recreational pilot who simply wishes to go flying for a while without all the restrictions imposed by the FAA has only to stay in uncontrolled airspace, below 365m, while the pilot who does want the protection afforded by ATC can easily enter the controlled airspace.    
     

Bằng cách này, những phi công bay để giải trí, người đơn thuần muốn bay trong một khoảng thời gian mà không chịu bất cứ hạn chế nào bởi FAA chỉ có thể ở trong vùng không phận không kiểm soát, dưới 365m, trong khi những phi công muốn có sự bảo vệ bởi ATC có thể dễ dàng bay vào vùng không phận được kiểm soát.

F

The FAA then recognised two types of operating environments.     

FAA về sau đã công nhận hai loại môi trường hoạt động.


In good meteorological conditions, flying would be permitted under Visual Flight Rules (VFR), which suggests a strong reliance on visual cues to maintain an acceptable level of safety.   
     

Trong điều kiện thời tiết tốt, việc sử dụng máy bay có thể được cấp phép dưới nguyên tắc VFR (các nguyên tắc cho chuyến bay có thể dùng mắt thường định vị được), điều này gợi ra một sự phụ thuộc lớn vào các tín hiệu thị giác để duy trì độ an toàn có thể chấp nhận được.


Poor visibility necessitated a set of Instrumental Flight Rules (IFR), underwhich the pilot relied on altitude and navigational information provided bythe plane’s instrument panel to fly safely.    

Tầm nhìn hạn chế cần nguyên tắc IFR, nguyên tắc mà các phi công sẽ điều khiển máy bay theo thông tin cung cấp bởi thiết bị trên máy bay để bay một cách an toàn.


On a clear day, a pilot in controlled airspace can choose a VFR or IFR flight plan, and the FAA regulations were devised in a way which accommodates both VFR and IFR operations in the same airspace.      

Vào những ngày đẹp trời, một phi công bay trong không phận được kiểm soát có thể lựa chọn kế hoạch bay là VFR hoặc IFR, và các quy định FAA đã đưa ra một cách, cách mà bố trí cả VFR và IFR hoạt động trong cùng một không phận.


However, a pilot can only choose to fly IFR if they possess an instrument rating which is above and beyond the basic pilot’s license that must also be held.         

Tuy nhiên, phi công chỉ được chọn bay IFR nếu họ đưa ra một xếp hạng thiết bị ở trên hoặc vượt ra ngoài giấy phép phi công cơ bản thì điều đó cũng phải được tổ chức.


Controlled airspace is divided into several different types, designated byletters of the alphabet.        

Không phận được kiểm soát được chia ra thành nhiều loại khác nhau, được đặt tên bằng các chữ cái trong bảng chữ cái.

G

Uncontrolled airspace is designated Class F, while controlled airspace below 5,490m above sea level and not in the vicinity of an airport is Class E.        

Không phận không kiểm soát được đặt là Class F, trong khi không phận kiểm soát dưới 5,490m so với mực nước biển và không trong khu vực lân cận sân bay là Class E.


All airspace above 5,490m is designated Class A.   

Tất cả không phận trên 5,490m được chỉ định là Class A.


The reason for the division of Class E and Class A airspace stems from the type of planes operating in them.     
 

Lý do phân chia thành các không phận Class A và Class E xuất phát từ các loại máy bay hoạt động trong các nhóm đó.


Generally, Class E airspace is where one finds general aviation aircraft (few of which can climb above 5,490m anyway), and commercial turboprop aircraft.  
     

Nhìn chung, không phận Class E là nơi người ta tìm thấy những chiếc máy bay phổ biến của ngành hàng không (một vài trong số đó có thể bay lên trên 5,490m), và máy bay phản lực phục vụ mục đích thương mại.


Above 5,490m is the realm of the heavy jets, since jet engines operate more efficiently at higher altitudes.     

Độ cao trên 5,490m là vương quốc của các máy bay hạng nặng, kể từ khi động cơ phản lực hoạt động hiệu quả hơn ở độ cao cao hơn.


The difference between Class E and A airspace is that in Class A, all operations are IFR, and pilots must be instrument-rated,
that is, skilled and licensed in aircraft instrumentation.

Điểm khác biệt giữa không phận Class A và Class E là, trong Class A tất cả các hoạt động chịu sự chi phối của IFR, và các phi công phải có công cụ đánh giá cao, đó là, có kỹ năng và chứng chỉ trong điều khiển máy bay.


This is because ATC control of the entire space is essential. 
         

Điều này bởi vì việc ATC kiểm soát toàn bộ không phận là điều cần thiết.


Three other types of airspace, Classes D, C and B, govern the vicinity of airports.

Ba loại không phận khác là Class D, C và B, chi phối các khu vực lân cận sân bay.


These correspond roughly to small municipal, medium-sized metropolitan and major metropolitan airports respectively, and encompass ani ncreasingly rigorous set of regulations.    

Những nhóm này tương ứng lần lượt với sân bay của thành phố nhỏ, đô thị tầm trung và đô thị lớn, và bao gồm một tập hợp các quy định ngày càng khắt khe.


For example, all a VFR pilot has to do to enter Class C airspace is establish two-way radio contact with ATC.         

Ví dụ như, việc tất cả các phi công VFR phải làm để vào không phận Class C là thiết lập liên lạc 2 chiều qua vô tuyến với ATC.


No explicit permission from ATC to enter is needed, although the pilot must continue to obey all regulations governing VFR flight.    

Sự không cho phép gia nhập rõ ràng từ ATC là cần thiết, mặc dù các phi công phải tuân thủ chuyến bay theo VFR.


To enter Class B airspace, such as on approach to a major metropolitan airport, an explicit ATC clearance is required.    

Để vào vùng không phận Class B, chẳng hạn như tiếp cận vào khu vực sân bay của đô thị lớn, một sự cho phép ATC là cần thiết.


The private pilot who cruises without permission into this airspace risks losing their license.

Các phi công tư nhân thực hiện chuyến bay mà không có sự cho phép bay vào những không phận ngày có nguy cơ bị tước giấy phép.

The meaning and power of smell: Mùi hương có ý nghĩa gì trong cuộc sống của chúng ta?

 

Khứu giác của chúng ta rất mạnh mẽ.
The sense of smell, or olfaction, is powerful.

Mùi hương ảnh hưởng đến chúng ta ở mức độ vật lý, tâm lý và cả xã hội.
Odours affect us on a physical, psychological and social level.

Tuy nhiên đa số chúng ta đang hít các mùi hương bao quanh mà không hề nhận biết được tầm quan trọng của chúng.
For the most part, however, we breathe in the aromas which surround us without being consciously aware of their importance to us.

Và chỉ khi khả năng ngửi của chúng ta vì lý do nào đó bị suy yếu thì chúng ta mới bắt đầu nhận ra vai trò quan trọng của khứu giác.
It is only when the faculty of smell is impaired for some reason that we begin to realise the essential role the sense of smell plays in our sense of well-being.

A

Một cuộc khảo sát được tiến hành bởi Anthony Synott tại Đại học Concordia ở Montreal hỏi những người tham gia nhận xét về tầm quan trọng của mùi hương trong cuộc sống.
A survey conducted by Anthony Synott at Montreal’s Concordia University asked participants to comment on how important smell was to them in their lives.

Rõ ràng là mùi có thể gợi nên những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ.
It became apparent that smell can evoke strong emotional responses.

Một mùi hương kết hợp với một trải nghiệm tốt có thể mang lại cho chúng một niềm vui tức thời, trong khi một mùi hôi hay một mùi liên kết với một kí ức xấu có thể làm cho chúng ta nhăn mặt với vẻ ghê tởm.
A scent associated with a good experience can bring a rush of joy, while a foul odour or one associated with a bad memory may make us grimace with disgust.

Những người trả lời cuộc khảo sát trên cho biết khứu giác của họ thích hay không thích tuỳ thuộc vào sự liên tưởng về mặt cảm xúc.
Respondents to the survey noted that many of their olfactory likes and dislikes were based on emotional associations.

Các liên tưởng như vậy có thể đủ mạnh để những mùi mà chúng ta thường cho là khó chịu trở nên dễ chịu, và những mùi mà chúng ta thường cho là thơm trở nên khó chịu đối với từng cá nhân cụ thể.
Such associations can be powerful enough so that odours that we would generally label unpleasant become agreeable, and those that we would generally consider fragrant become disagreeable for particular individuals.

Do đó nhận thức về mùi không chỉ bao gồm những cảm giác của bản thân mùi đó mà còn bao gồm cả những trải nghiệm và cảm xúc liên kết với chúng.
The perception of smell, therefore, consists not only of the sensation of the odours themselves, but of the experiences and emotions associated with them.

B

Mùi cũng là dấu hiệu quan trọng trong liên kết xã hội.
Odours are also essential cues in social bonding.

Một người trả lời cuộc khảo sát tin rằng không có sự liên kết cảm xúc thật giữa ta với người ta yêu mà không cần chạm hay ngửi.
One respondent to the survey believed that there is no true emotional bonding without touching and smelling a loved one.

Trong thực tế, trẻ em nhận ra mùi của mẹ ngay sau khi sinh và người lớn thường có thể xác định con, vợ hoặc chồng của họ bằng mùi.
In fact, infants recognise the odours of their mothers soon after birth and adults can often identify their children or spouses by scent.

Trong một thử nghiệm nổi tiếng, phụ nữ và nam giới đã có thể phân biệt bởi mùi quần áo của chồng hay vợ mình từ những quần áo tương tự mặc bởi những người khác.
In one well-known test, women and men were able to distinguish by smell alone clothing worn by their marriage partners from similar clothing worn by other people.

Hầu hết các đối tượng tham gia có lẽ không bao giờ nghĩ là mùi có thể xem như một tín hiệu để xác định các thành viên trong gia đình mình trước khi được tham gia vào cuộc kiểm tra này, nhưng như các thí nghiệm cho thấy mùi có tác động đến việc xác định trên mặc dù họ không để ý tới.
Most of the subjects would probably never have given much thought to odour as a cue for identifying family members before being involved in the test, but as the experiment revealed, even when not consciously considered, smells register.


C

Mặc dù mùi đóng vai trò quan trọng đối với cuộc sống tình cảm và cảm giác của chúng ta nhưng có lẽ nó là giác quan bị đánh giá thấp nhất trong nhiều nền văn hóa.
In spite of its importance to our emotional and sensory lives, smell is probably the most undervalued sense in many cultures.

Lý do thường được đưa ra cho việc xem nhẹ này là khả năng khứu giác của con người rất yếu và chưa phát triển khi so với khả năng của các động vật khác.
The reason often given for the low regard in which smell is held is that, in comparison with its importance among animals, the human sense of smell is feeble and undeveloped.

Trong khi sự thật rằng năng lực khứu giác của con người không được tốt như các loài động vật khác thì khả năng khứu giác này vẫn còn khá nhạy.
While it is true that the olfactory powers of humans are nothing like as fine as those possessed by certain animals, they are still remarkably acute.

Mũi của chúng ta có thể nhận biết hàng ngàn mùi khác nhau, và có thể cảm nhận những mùi với số lượng cực kỳ nhỏ.
Our noses are able to recognise thousands of smells, and to perceive odours which are present only in extremely small quantities.

D

Tuy nhiên mùi là một hiện tượng rất khó nắm bắt.
Smell, however, is a highly elusive phenomenon.

Ví dụ, không giống như màu sắc, mùi có thể không có tên trong nhiều ngôn ngữ vì đơn giản là không có từ cụ thể nào chỉ điều này.
Odours, unlike colours, for instance, cannot be named in many languages because the specific vocabulary simply doesn’t exist.

Nó có mùi là blah blah blah - chúng ta phải nói thế khi mô tả 1 mùi nào đó theo trải nghiệm về khứu giác của chúng ta.
It smells like blah blah blah - we have to say when describing an odour, struggling to express our olfactory experience.

Hay chúng ta cũng không ghi chép được mùi vì không có cách nào hiệu quả để chụp hoặc lưu trữ chúng theo thời gian.
Nor can odours be recorded: there is no effective way to either capture or store them over time.

Trong lĩnh vực khứu giác, việc chúng ta phải làm gì là mô tả và ghi chép những gì đã nhớ.
In the realm of olfaction, we must make do with descriptions and recollections.

Điều này có ý nghĩa đối với các nghiên cứu khứu giác.
This has implications for olfactory research.

E

Hầu hết các nghiên cứu về mùi thực hiện cho đến nay có bản chất của khoa học vật lý.
Most of the research on smell undertaken to date has been of a physical scientific nature.

Những tiến bộ đáng kể đã được thực hiện trong sự hiểu biết về bản chất sinh học và hóa học của khứu giác, nhưng nhiều câu hỏi cơ bản vẫn chưa được trả lời.
Significant advances have been made in the understanding of the biological and chemical nature of olfaction, but many fundamental questions have yet to be answered.

Các nhà nghiên cứu vẫn còn băn khoăn xem khứu giác là một hay hai giác quan - một là phản ứng với mùi một cách thích hợp và hai là nhận biết các chất hoá học không mùi trong không khí.
Researchers have still to decide whether smell is one sense or two - one responding to odours proper and the other registering odourless chemicals in the air.

Các câu hỏi khác chưa được trả lời là liệu mũi có phải là phần duy nhất của cơ thể bị ảnh hưởng bởi mùi hay không, và làm thế nào mùi có thể được đo lường một cách khách quan dưới dạng các thành phần phi vật thể.
Other unanswered questions are whether the nose is the only part of the body affected by odours, and how smells can be measured objectively given the nonphysical components.

Những câu hỏi như thế này có thể hiểu là việc quan tâm trong lĩnh vực tâm lý về mùi chắc chắn sẽ đóng 1 vai trò ngày càng quan trọng đối với các nhà nghiên cứu.
Questions like these mean that interest in the psychology of smell is inevitably set to play an increasingly important role for researchers.

F

Tuy nhiên, mùi không chỉ đơn giản là một hiện tượng sinh học và tâm lý.
However, smell is not simply a biological and psychological phenomenon.

Mùi là văn hóa, do đó nó là một hiện tượng xã hội và lịch sử.
Smell is cultural, hence it is a social and historical phenomenon.

Mùi được xem như một giá trị văn hóa: có những mùi bị cho là công kích ở một số nền văn hóa lại được hoàn toàn chấp nhận được ở những nền văn hoá khác.
Odours are invested with cultural values: smells that are considered to be offensive in some cultures may be perfectly acceptable in others.

Do đó, ý thức của chúng ta về mùi chỉ là một phương tiện, và là mô hình tương tác với thế giới.
Therefore, our sense of smell is a means of, and model for, interacting with the world.

Các mùi khác nhau có thể cho chúng ta những trải nghiệm thân mật hay tình cảm và giá trị mà chúng ta có được đến từ những trải nghiệm này kết hợp chặt chẽ bởi các thành viên của xã hội trên phương diện cá nhân sâu sắc.
Different smells can provide us with intimate and emotionally charged experiences and the value that we attach to these experiences is interiorised by the members of society in a deeply personal way.

Quan trọng hơn là cảm xúc thông thường của chúng ta về mùi có thể giúp phân biệt chúng ta đến từ các nền văn hóa khác.
Importantly, our commonly held feelings about smells can help distinguish us from other cultures.

Do đó, các nghiên cứu về lịch sử văn hóa của mùi là một cảm giác rất thực tế, một cuộc điều tra bản chất của văn hóa nhân loại.
The study of the cultural history of smell is, therefore, in a very real sense, an investigation into the essence of human culture.

Land of the rising sun: Nhật Bản - đất nước mặt trời mọc

 

A

Nhật Bản có một thành tích đáng nể về thành tựu toán học so với Anh và xứ Wales.
Japan has a significantly better record in terms of average mathematical attainment than England and Wales.

So sánh ở cấp độ lớn hơn trên trường quốc tế về thành tựu các học sinh từ những năm 1960 thì không chỉ học sinh Nhật Bản ở độ tuổi 13 có điểm số trung bình tốt hơn, mà tỷ lệ học sinh có thành tích thấp ở Anh cũng cao vì tình cờ nơi đây có sự biến động về điểm số rất lớn.
Large sample international comparisons of pupils' attainments since the 1960s have established that not only did Japanese pupils at age 13 have better scores of average attainment, but there was also a larger proportion of 'low' attainers in England, where, incidentally, the variation in attainment scores was much greater.

Tỷ lệ phần trăm của tổng sản phẩm quốc gia chi cho giáo dục ở hai quốc gia trên tương đối giống nhau, do đó làm thế nào để đạt được thành tích cao hơn và nhất quán hơn trong môn toán?.
The percentage of Gross National Product spent on education is reasonably similar in the two countries, so how is this higher and more consistent attainment in maths achieved?.

B

Trường trung học cơ sở ở Nhật Bản bao gồm ba năm học, từ lớp bảy (13 tuổi) đến lớp chín (15 tuổi).
Lower secondary schools in Japan cover three school years, from the seventh grade (age 13) to the ninth grade (age 15).

Hầu như tất cả các học sinh ở giai đoạn này đều học tại các trường nhà nước: chỉ có 3 phần trăm là học ở khu vực tư nhân.
Virtually all pupils at this stage attend state schools: only 3 per cent are in the private sector.

Trường học thường có thiết kế rất hiện đại, được sắp xếp rất tốt ngay từ đường đi vào và cả bên trong rộng rãi.
Schools are usually modern in design, set well back from the road and spacious inside.

Phòng học lớn và mỗi em học sinh được ngồi một bàn theo hàng dọc.
Classrooms are large and pupils sit at single desks in rows.

Những bài học kéo dài theo tiêu chuẩn 50 phút và luôn luôn có 10 phút giải lao, cho các em học sinh cơ hội để xả hơi.
Lessons last for a standardised 50 minutes and are always followed by a 10-minute break, which gives the pupils a chance to let off steam.

Giáo viên bắt đầu với một nghi thức trang trọng là cúi chào lẫn nhau, và sau đó cả lớp tập trung vào bài giảng.
Teachers begin with a formal address and mutual bowing, and then concentrate on whole-class teaching.

Các lớp học rất rộng - thường khoảng 40 em và không phân luồng.
Classes are large - usually about 40 - and are unstreamed.

Các học sinh ngồi cùng một lớp học cho tất cả các môn trong suốt quá trình đi học để phát triển khả năng đồng nhất và lòng trung thành rất đáng nể.
Pupils stay in the same class for all lessons throughout the school and develop considerable class identity and loyalty.

Học sinh học tại trường ở gần nhà mà trên lý thuyết là không phân biệt xếp hạng giữa các trường.
Pupils attend the school in their own neighbourhood, which in theory removes ranking by school.

Trong thực tế ở Tokyo, do việc tập trung tương đối lớn các trường học ở đây nên có một sự cạnh tranh nào đó để được vào trường 'tốt hơn' trong một khu vực cụ thể.
In practice in Tokyo, because of the relative concentration of schools, there is some competition to get into the 'better' school in a particular area.

C

Các cách dạy học truyền thống hình thành nên nền tảng của bài học và các lớp học cực kỳ yên tĩnh là minh chứng cho các luận điểm về dạy học ở trên.
Traditional ways of teaching form the basis of the lesson and the remarkably quiet classes take their own notes of the points made and the examples demonstrated.

Mỗi em học sinh đều có bản sao những cuốn sách giáo khoa được cung cấp bởi các cơ quan giáo dục trung ương, gọi là Monbusho, như là một phần của khái niệm giáo dục bắt buộc miễn phí cho đến tuổi 15.
Everyone has their own copy of the textbook supplied by the central education authority, Monbusho, as part of the concept of free compulsory education up to the age of 15.

Về tổng thể thì các sách giáo khoa thường nhỏ và có lẽ khá rẻ để sản xuất nhưng cũng được sắp xếp và phát triển rất hợp lý.
These textbooks are, on the whole, small, presumably inexpensive to produce, but well set out and logically developed.

Một giáo viên được đặc biệt chỉ định để vẽ các màu sắc và hình ảnh minh hoạ cho sách giáo khoa môn toán: giáo viên cảm thấy điều này sẽ giúp các em học sinh lớn lên trên nền văn hoá phim hoạt hình dễ tiếp cận bài học hơn.
One teacher was particularly keen to introduce colour and pictures into maths textbooks: he felt this would make them more accessible to pupils brought up in a cartoon culture.

Bên cạnh việc phê duyệt sách giáo khoa, Monbusho cũng quyết định các chương trình học tập trung cho cả nước và cách thức triển khai chương trình này.
Besides approving textbooks, Monbusho also decides the highly centralised national curriculum and how it is to be delivered.

D

Các bài học đều tuân theo cùng một khuôn mẫu.
Lessons all follow the same pattern.

Lúc đầu, các em học sinh giải các bài tập trên bảng, sau đó giáo viên sẽ nhận xét, chỉnh sửa hoặc xây dựng nếu cần thiết.
At the beginning, the pupils put solutions to the homework on the board, then the teachers comment, correct or elaborate as necessary.

Học sinh sẽ tự chấm điểm bài tập về nhà của mình: đây là một nguyên tắc quan trọng trong việc học ở Nhật vì nó cho phép học sinh biết được chúng đã làm sai ở đâu và vì sao sai, do đó chúng có thể được tránh sai lầm này trong tương lai.
Pupils mark their own homework: this is an important principle in Japanese schooling as it enables pupils to see where and why they made a mistake, so that these can be avoided in future.

Sẽ không để ý những sai lầm này nếu bạn đang học hỏi từ chúng.
No one minds mistakes or ignorance as long as you are prepared to learn from them.

Sau khi các bài tập đã được thảo luận, giáo viên sẽ giải thích các chủ điểm của bài học rất chậm với nhiều sự lặp lại và chỉnh sửa.
After the homework has been discussed, the teacher explains the topic of the lesson, slowly and with a lot of repetition and elaboration.

Các ví dụ được minh hoạ trên bảng; các câu hỏi từ sách giáo khoa được thảo luận trước trên lớp sau đó mỗi em trong lớp sẽ phải trả lời các câu hỏi từ sách giáo khoa này.
Examples are demonstrated on the board; questions from the textbook are worked through first with the class, and then the class is set questions from the textbook to do individually.

Các bảng tính phụ trợ hiếm khi được sử dụng trong lớp học toán.
Only rarely are supplementary worksheets distributed in a maths class.

Ấn tượng là bản chất logic của sách giáo khoa và việc bao phủ toàn diện của sách về các thể loại khác nhau của ví dụ, kết hợp với sự đồng nhất tương đối của lớp học, làm cho các bản tính trở nên không cần thiết.
The impression is that the logical nature of the textbooks and their comprehensive coverage of different types of examples, combined with the relative homogeneity of the class, renders work sheets unnecessary.

Đến lúc này, giáo viên sẽ cho lưu hành sách và đảm bảo rằng tất cả các em học sinh đều được theo kịp.
At this point, the teacher would circulate and make sure that all the pupils were coping well.

E

Đáng chú ý là các lớp học này là hỗn hợp các em có khả năng khác nhau và học môn toán bắt buột chung suốt từ 6 đến 15 tuổi.
It is remarkable that large, mixed-ability classes could be kept together for maths throughout all their compulsory schooling from 6 to 15.

Các giáo viên nói rằng họ luôn giúp đỡ mỗi em học sinh vào cuối mỗi một bài học hoặc sau giờ học hay trợ giảng thêm nếu cần thiết.
Teachers say that they give individual help at the end of a lesson or after school, setting extra work if necessary.

Trong các bài học mà chúng tôi quan sát, bất kỳ em nào gặp khó khăn sẽ được sự hỗ trợ bởi các giáo viên hoặc sự giúp đỡ lặng lẽ từ bạn bè bên cạnh.
In observed lessons, any strugglers would be assisted by the teacher or quietly seek help from their neighbour.

Bản sắc giúp đỡ được nuôi dưỡng cẩn thận này làm cho học sinh quan tâm giúp nhau nhau và dù sao, đó là vì lợi ích của các em vì cả lớp sẽ cùng phát triển chung với nhau.
Carefully fostered class identity makes pupils keen to help each other - anyway, it is in their interests since the class progresses together.

Do đó hiếm có trường hợp giúp các em học chậm để theo kịp.
This scarcely seems adequate help to enable slow learners to keep up.

Tuy nhiên, thái độ của Nhật Bản đối với giáo dục là theo chủ nghĩa đổi mới tức “nếu bạn làm việc đủ chăm chỉ thì bạn có thể làm hầu hết mọi thứ".
However, the Japanese attitude towards education runs along the lines of 'if you work hard enough, you can do almost anything'.

Phụ huynh được nắm bắt thông tin chặt chẽ về sự tiến bộ của con mình và sẽ đóng vai trò trong việc giúp con cái của họ để theo kịp với lớp như gửi chúng đến lớp 'Juku "(lớp bổ trợ buổi tối) để học thêm và được khuyến khích học tập chăm chỉ hơn.
Parents are kept closely informed of their children's progress and will play a part in helping their children to keep up with class, sending them to 'Juku' (private evening tuition) if extra help is needed and encouraging them to work harder.

Việc này có hiệu quả ít nhất là 95 phần trăm của số học sinh.
It seems to work, at least for 95 per cent of the school population.

F

Vậy các yếu tố góp phần quan trọng trong sự thành công của việc giảng dạy toán học là gì? Rõ ràng là thái độ rất quan trọng.
So what are the major contributing factors in the success of maths teaching? Clearly, attitudes are important.

Giáo dục được đánh giá rất cao trong văn hóa Nhật Bản; toán được công nhận là một môn học bắt buộc quan trọng trong suốt học kỳ; và trọng tâm là học tập chăm chỉ kết hợp với sự tập trung vào tính chính xác.
Education is valued greatly in Japanese culture; maths is recognised as an important compulsory subject throughout schooling; and the emphasis is on hard work coupled with a focus on accuracy.

Các quan điểm khác liên quan đến thái độ hổ trợ của lớp đối với các học sinh chậm, thiếu khả năng cạnh tranh trong lớp, và về điểm mạnh tích cực của việc tự học và nâng cao tiêu chuẩn của chính mình.
Other relevant points relate to the supportive attitude of a class towards slower pupils, the lack of competition within a class, and the positive emphasis on learning for oneself and improving one's own standard.

Và quan điểm về các bài học nhàm chán lặp đi lặp lại và việc học vẹt mà đôi khi được trích dẫn liên quan đến các lớp học ở Nhật, có thể được xem là bất công và phi lý.
And the view of repetitively boring lessons and learning the facts by heart, which is sometimes quoted in relation to Japanese classes, may be unfair and unjustified.

Không có bài toán nào được xem là dỡ cả.
No poor maths lessons were observed.

Mà chủ yếu là các bài này hay và được truyền cảm hứng đến học sinh như thế nào.
They were mainly good and one or two were inspirational.
 

Sheet glass manufacture: the float process


A

Glass, which has been made since the time of the Mesopotamians and Egyptians, is little more than a mixture of sand, soda ash and lime.

Glass, được làm từ thời Mesopotamians và người Ai Cập, không chỉ là hỗn hợp cát, soda ash và vôi.

When heated to about 1500 degrees Celsius (°C) this becomes a molten mass that hardens when slowly cooled.
Khi nung nóng lên khoảng 1500 độ Celsius (° C), đây sẽ trở thành một khối nóng chảy khi cứng.

The first successful method for making clear, flat glass involved spinning.
Phương pháp thành công đầu tiên để chế tạo kính phẳng, phẳng gắn liền.

This method was very effective as the glass had not touched any surfaces between being soft and becoming hard, so it stayed perfectly unblemished, with a 'fire finish'.
Phương pháp này rất hiệu quả vì kính không chạm vào bất kỳ bề mặt nào giữa mềm và trở nên cứng, vì vậy nó vẫn hoàn toàn không có vết bẩn, với 'kết thúc lửa'.

However, the process took a long time and was labour intensive.
Tuy nhiên, quá trình này mất nhiều thời gian và đòi hỏi nhiều lao động.

B

Nevertheless, demand for flat glass was very high and glassmakers across the world were looking for a method of making it continuously.
Tuy nhiên, nhu cầu về kính phẳng rất cao và các nhà chế tạo kính trên khắp thế giới đang tìm kiếm một phương pháp liên tục.

The first continuous ribbon process involved squeezing molten glass through two hot rollers, similar to an old mangle.
Quá trình ruy băng liên tục đầu tiên liên quan đến việc ép kính nóng chảy qua hai cuộn nóng, tương tự như cuộn giấy cũ.

This allowed glass of virtually any thickness to be made non-stop, but the rollers would leave both sides of the glass marked, and these would then need to be ground and polished.
Điều này cho phép thủy tinh có độ dày hầu như bất kỳ được làm không ngừng, nhưng các con lăn sẽ để lại cả hai mặt của thủy tinh đánh dấu, và sau đó sẽ cần phải được mặt đất và đánh bóng.

This part of the process rubbed away around 20 per cent of the glass, and the machines were very expensive.
Phần này của quá trình này đã cọ xát khoảng 20% ​​lượng thủy tinh, và những chiếc máy này rất đắt.

C

The float process for making flat glass was invented by Alistair Pilkington.
Quy trình phao để chế tạo kính phẳng được Alistair Pilkington phát minh ra.

This process allows the manufacture of clear, tinted and coated glass for buildings, and clear and tinted glass for vehicles.
Quá trình này cho phép sản xuất thủy tinh sạch, tráng men và tráng cho các tòa nhà, và kính sạch và màu cho xe cộ.

Pilkington had been experimenting with improving the melting process, and in 1952 he had the idea of using a bed of molten metal to form the flat glass, eliminating altogether the need for rollers within the float bath.
Pilkington đã được thử nghiệm để cải thiện quá trình tan chảy, và năm 1952 ông đã có ý tưởng sử dụng một giường kim loại nóng chảy để tạo thành thủy tinh phẳng, loại bỏ hoàn toàn sự cần thiết cho con lăn trong bể nổi.

The metal had to melt at a temperature less than the hardening point of glass (about 600°C), but could not boil at a temperature below the temperature of the molten glass (about 1500°C).
Kim loại này đã tan chảy ở nhiệt độ thấp hơn điểm cứng của thủy tinh (khoảng 600 ° C), nhưng không thể đun sôi ở nhiệt độ dưới nhiệt độ thủy tinh nóng chảy (khoảng 1500 ° C).

The best metal for the job was tin.
Kim loại tốt nhất cho công việc là tin.

D

The rest of the concept relied on gravity, which guaranteed that the surface of the molten metal was perfectly flat and horizontal.
Phần còn lại của khái niệm dựa vào trọng lực, đảm bảo bề mặt của kim loại nóng chảy hoàn toàn bằng phẳng và ngang.

Consequently, when pouring molten glass onto the molten tin, the underside of the glass would also be perfectly flat.
Do đó, khi đổ kính nóng chảy vào thiếc nóng chảy, mặt dưới của kính cũng sẽ phẳng.

If the glass were kept hot enough, it would flow over the molten tin until the top surface was also flat, horizontal and perfectly parallel to the bottom surface.
Nếu kính được giữ nóng đủ, nó sẽ chảy qua thạch nóng chảy cho đến khi mặt trên cùng cũng phẳng, ngang và hoàn toàn song song với mặt đáy.

Once the glass cooled to 604°C or less it was too hard to mark and could be transported out of the cooling zone by rollers.
Khi thủy tinh nguội xuống 604 ° C hoặc thấp hơn, quá khó để đánh dấu và có thể được vận chuyển ra khỏi vùng làm mát bằng các con lăn.

The glass settled to a thickness of six millimetres because of surface tension interactions between the glass and the tin.
Thủy tinh đã lắng xuống độ dày sáu milimet vì các tương tác căng thẳng bề mặt giữa thủy tinh và thiếc.

By fortunate coincidence, 60 per cent of the flat glass market at that time was for six-millimetre glass.
Với sự trùng hợp ngẫu nhiên, 60 phần trăm của thị trường kính phẳng vào thời điểm đó là đối với thủy tinh có diện tích 6 milimet.

E

Pilkington built a pilot plant in 1953 and by 1955 he had convinced his company to build a full-scale plant.
Pilkington đã xây dựng một nhà máy thí điểm vào năm 1953 và năm 1955 ông đã thuyết phục công ty của mình xây dựng một nhà máy quy mô toàn diện.

However, it took 14 months of non-stop production, costing the company £100,000 a month, before the plant produced any usable glass.
Tuy nhiên, phải mất 14 tháng sản xuất không ngừng, chi phí cho công ty 100,000 bảng mỗi tháng, trước khi nhà máy sản xuất ra bất kỳ loại cốc có thể sử dụng được.

Furthermore, once they succeeded in making marketable flat glass, the machine was turned off for a service to prepare it for years of continuous production.
Hơn nữa, một khi họ đã thành công trong việc sản xuất kính phẳng, máy đã bị tắt để phục vụ cho việc sản xuất nó liên tục trong nhiều năm.

When it started up again it took another four months to get the process right again.
Khi nó bắt đầu lại một lần nữa phải mất bốn tháng nữa để có được quá trình ngay.

They finally succeeded in 1959 and there are now float plants all over the world, with each able to produce around 1000 tons of glass every day, non-stop for around 15 years.
Họ cuối cùng đã thành công vào năm 1959 và hiện nay có các nhà máy nổi trên toàn thế giới, mỗi ngày có thể sản xuất khoảng 1000 tấn thủy tinh mỗi ngày, không ngừng trong khoảng 15 năm.

F

Float plants today make glass of near optical quality.
Các nhà máy nổi ngày nay làm cho chất lượng của kính gần chất lượng quang học.

Several processes - melting, refining, homogenising - take place simultaneously in the 2000 tonnes of molten glass in the furnace.
Một số quy trình - tan chảy, tinh chế, đồng nhất - diễn ra đồng thời trong 2000 tấn thủy tinh nóng chảy trong lò.

They occur in separate zones in a complex glass flow driven by high temperatures.
Chúng xảy ra trong các khu riêng biệt trong một dòng chảy thủy tinh phức hợp điều khiển bởi nhiệt độ cao.

It adds up to a continuous melting process, lasting as long as 50 hours, that delivers glass smoothly and continuously to the float bath, and from there to a coating zone and finally a heat treatment zone, where stresses formed during cooling are relieved.
Nó làm tăng quá trình tan chảy liên tục, kéo dài 50 giờ, cung cấp thủy tinh liên tục và liên tục cho bồn nổi, và từ đó đến vùng phủ và cuối cùng là khu xử lý nhiệt, nơi những căng thẳng hình thành trong quá trình làm mát được giảm bớt.

G

The principle of float glass is unchanged since the 1950s.
Nguyên lý thủy tinh nổi không thay đổi kể từ những năm 1950.

However, the product has changed dramatically, from a single thickness of 6,8 mm to a range from sub-millimetre to 25 mm, from a ribbon frequently marred by inclusions and bubbles to almost optical perfection.
Tuy nhiên, sản phẩm đã thay đổi đáng kể, từ độ dày đơn từ 6,8 mm đến một dải từ dưới milimet đến 25 mm, từ một dải ruy băng thường xuyên bị nứt bởi sự kết dính và bọt khí đến sự hoàn hảo gần như quang học.

To ensure the highest quality, inspection takes place at every stage.
Để đảm bảo chất lượng cao nhất, kiểm tra diễn ra ở mọi giai đoạn.

Occasionally, a bubble is not removed during refining, a sand grain refuses to melt, a tremor in the tin puts ripples into the glass ribbon.
Thỉnh thoảng, bong bóng không bị loại bỏ trong quá trình tinh chế, hạt cát không bị tan chảy, sự run rẩy trong hộp thiếc rơi vào ruy băng thủy tinh.

Automated on-line inspection does two things.
Tự động kiểm tra trên mạng có hai việc.

Firstly, it reveals process faults upstream that can be corrected.
Thứ nhất, nó cho thấy các lỗi quá trình ở thượng nguồn có thể được sửa chữa.

Inspection technology allows more than 100 million measurements a second to be made across the ribbon, locating flaws the unaided eye would be unable to see.
Công nghệ kiểm tra cho phép thực hiện hơn 100 triệu phép đo một giây qua băng, tìm ra những sai sót mà mắt không nhìn thấy sẽ không nhìn thấy được.

Secondly, it enables computers downstream to steer cutters around flaws.
Thứ hai, nó cho phép các máy tính hạ lưu để điều khiển máy cắt xung quanh các khiếm khuyết.

Float glass is sold by the square metre, and at the final stage computers translate customer requirements into patterns of cuts designed to minimise waste.
Kính nổi được bán bởi mét vuông, và ở giai đoạn cuối máy tính chuyển yêu cầu của khách hàng thành các mẫu cắt giảm được thiết kế để giảm thiểu chất thải.

NGỌC THU

ARTCANDY SHOP NGỌC THU -     Trên   bước   đường   THÀNH   CÔNG , không   có   dấu   chân   của   những   kẻ   LƯỜI   BIẾNG . ...