Trà chiều (TEA TIMES)


Trà chiều (TEA TIMES)








The chances are that you have already drunk a cup or glass of tea today. Perhaps, you are sipping one as you read this. Tea, now an everyday beverage in many parts of the world, has over the centuries been an important part of the rituals of hospitality both in the home and in trader society.

Có nhiều khả năng hôm nay bạn đã uống một tách hoặc một ly trà. Tuy nhiên, cũng có thể bạn đang nhấm nháp nó trong khi bạn đọc bài báo này. Hiện nay, trà là một thức uống hàng ngày ở nhiều nơi trên thế giới, cũng là một phần quan trọng trong các nghi lễ của sự hiếu khách cả trong gia đình và trong xã hội kinh doanh. 

Tea originated in China, and in Eastern Asia tea making and drinking ceremonies have been popular for centuries. Tea was first shipped to North Western Europe by English and Dutch maritime traders in the sixteenth century. At about the same time, a land mule from the Earth East, via Moscow, to Europe was opened up. Tea also figured in America’s bid for independence from British rule – the Boston Tea Party.

Trà có nguồn gốc ở Trung Quốc, và ở Đông Á các nghi lễ pha và thưởng thức trà đã phổ biến trong nhiều thế kỷ. Các tàu buôn của người Anh và Hà Lan đã vận chuyển trà lần đầu tiên tới Tây Bắc Châu âu vào thế kỷ thứ 16th. Cũng vào khoảng thời gian đó, một con đường bộ vận chuyển từ phía Đông, qua Moscow, sang châu Âu đã được mở ra. Trà cũng đóng vai trò trong nỗ lực giành độc lập của Mỹ thoát khỏi ách thống trị của Anh – Lễ hội trà Boston 
As, over the last four hundred years, tea-leaves became available throughout much of Asia and Europe, the ways in which tea was drunk changed. The Chinese considered the quality of the leaves and the ways in which they were cured all important. People in other cultures added new ingredients besides tea-leaves and hot water. They drank tea with milk, sugar, spices like cinnamon and cardamom, and herbs such as mint or sage. The variations are endless. For example, in Western Sudan on the edge of the Sahara Desert, sesame oil is added to milky tea on cold mornings. In England tea, unlike coffee, acquired a reputation as a therapeutic drink that promoted health. Indeed, in European and Arab countries as well as in Persia and Russia, tea was praised for its restorative and health giving properties. One Dutch physician, Cornelius Blankaart, advised that to maintain health a minimum of eight to ten cups a day should be drunk, and that up to 50 to 100 daily cups could be consumed with safely.

Trong hơn bốn trăm năm qua, lá trà đã có mặt trên khắp châu Á và châu Âu, cách thức uống trà đã thay đổi. Người Trung Quốc coi trọng chất lượng của lá trà và những cách thức xử lý trà để giữ được lâu. Người dân ở các nền văn hóa khác bổ sung thêm thành phần mới bên cạnh trà lá và nước nóng. Họ uống trà với sữa, đường, gia vị như quế và thảo quả, và các loại thảo mộc như bạc hà hoặc cây xô thơm. Có sự biến đổi không ngừng. Ví dụ, ở Tây Sudan trên các miền của sa mạc Sahara, dầu mè được thêm vào trà sữa vào các buổi sáng lạnh. Ở Anh, không giống như cà phê, trà được biết tới như một thức uống chữa bệnh tăng cường sức khỏe. Thực tế rằng, ở các nước châu Âu và Ả Rập cũng như ở Ba Tư và Nga, trà đã được đánh giá cao về các đặc tính hồi phục và có lợi cho sức khỏe. Một bác sĩ người Hà Lan, Cornelius Blankaart, khuyên rằng để duy trì sức khỏe nên uống tối thiểu là tám đến mười cốc trà một ngày, và rằng mức 50 đến 100 cốc hàng ngày có thể được tiêu thụ một cách an toàn.

While European coffee houses were frequented by men discussing politics and closing business deals, respectable middle-class women stayed at home and held lea parties. When the price of tea fell in the nineteenth century poor people took up the drink with enthusiasm. Different grades and blends of tea were sold to suit every pocket.

Trong khi, những người đàn ông Châu Âu thường xuyên tới các quán cà phê để thảo luận về chính trị và các hợp đồng kinh doanh, phụ nữ tầng lớp trung lưu ở nhà và tổ chức các tiệc trà. Khi giá trà giảm ở thế kỷ XIX, người nghèo đã bị tiêu thụ trà nhiệt tình hơn. Loại trà và hỗn hợp trà khác nhau được bán phù hợp với túi tiền của mọi người.

Throughout the world today, few religious groups object to tea drinking In Islamic cultures, where drinking of alcohol is forbidden, tea and coffee consumption is an important part of social life. However, Seventh-Day Adventists, recognising the beverage as a drug containing the stimulant caffeine, frown upon the drinking of tea.

Trên khắp thế giới ngày nay, vài nhóm tôn giáo phản đối việc uống trà. Trong nền văn hóa Hồi giáo, trong khi rượu là thức uống bị cấm thì việc tiêu thụ trà và cà phê đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, các tín đồ Cơ Đốc Phục Lâm không tán thành việc uống trà vì họ cho rằng trà là một loại thuốc có chứa chất kích thích caffeine. 

Nomadic Bedouin are well known for traditions of hospitality in the desert. According to Middle Eastern tradition, guests are served both tea and coffee from pots kept ready on the fires of guest tents where men of the family and male visitors gather. Cups of ‘bitter’ cardamom coffee and glasses of sugared tea should be constantly refilled by the host.

Người Bedouin du mục nổi tiếng với truyền thống hiếu khách ở sa mạc. Theo truyền thống Trung Đông, khách được phục vụ cả trà và cà phê từ những chiếc nồi đun trên ngọn lửa tại lều khách nơi những người đàn ông của gia đình và du khách nam tụ tập. Tách cà phê thảo quả 'đắng' và ly trà có đường thường xuyên được chủ nhà châm thêm

For over a thousand years, Arab traders have been bringing Islamic culture, including tea drinking; to northern and western Africa, Techniques of tea preparation and the ceremony involved have been adapted, in West African countries, such as Senegal and The Gambia, it is fashionable for young men to gather in small groups to brew Chinese ‘gunpowder’ tea. The tea is boiled with large amounts of sugar for a long time.
Trong hơn một ngàn năm, thương nhân Ả Rập đã mang tới nền văn hóa Hồi giáo, bao gồm uống trà, tới phía bắc và phía tây châu Phi. Các kỹ thuật chuẩn bị tiệc và nghi lễ trà đã được điều chỉnh để thích nghi, ở các nước Tây Phi như Senegal và Gambia, việc những nam thanh niêm tập trung thành các nhóm nhỏ để nấu trà 'đen' Trung Quốc trở thành mốt thời thượng. Trà được đun sôi với một lượng lớn đường trong khoảng thời gian dài.

Tea drinking in India remains an important part of daily life. There, tea made entirely with milk is popular, ‘Chai’ is made by boiling milk and adding tea, sugar and some spices. This form of tea making has crossed the Indian Ocean and is also popular in East Africa, where tea is considered best when it is either very milky or made with water only. Curiously, this ‘milk or water’ formula has been carried over to the preparation of instant coffee, which is served in cafes as either black, or sprinkled on a cup of hot milk.
Uống trà ở Ấn Độ vẫn là một phần quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Ở đó, phổ biến loại trà được làm hoàn toàn với sữa, 'Chai' được pha bởi sữa nóng và thêm trà, đường và một số gia vị. Đây là hình thức pha trà đã vượt qua Ấn Độ Dương và cũng rất phổ biến ở Đông Phi, nơi trà được coi là tốt nhất khi nó được pha với rất nhiều sữa hoặc chỉ pha với nước. Lạ kỳ thay, công thức 'sữa hoặc nước' này đã được vận dụng làm chất pha chế cho cà phê hòa tan, được phục vụ trong các quán cà phê dưới hình thức cà phê đen, hoặc rắc lên cốc sữa nóng.
 
In Britain, coffee drinking, particularly in the informal atmosphere of coffee shops, is currently in vogue. Yet, the convention of afternoon tea lingers. At conferences, it remains common practice to serve coffee in the morning and tea in the afternoon. Contemporary’ China, too, remains true to its long tradition. Delegates at conferences and seminars are served lea in cups with lids to keep the infusion hot. The cups are topped up throughout the proceedings. There are as yet no signs of coffee at such occasions.

Tại Anh, uống cà phê, đặc biệt là trong bầu không khí bình dân của các quán cà phê, hiện đang thịnh hành. Tuy nhiên, tục uống trà chiều vẫn tồn tại. Tại các hội nghị, thông thường phục vụ cà phê vào buổi sáng và trà vào buổi chiều. Tại Trung Quốc đương thời cũng vậy, vẫn còn giữ truyền thống lâu đời của nó. Các đại biểu tại hội nghị và hội thảo được phục vụ trà trong tách có nắp đậy để giữ nhiệt. Các cốc được thêm nước trong suốt quá trình nghị sự.  Dường như không có sự xuất hiện của cà phê trong những dịp như vậy.



KẸO TẾT KỶ HỢI

KẸO TẾT KỶ HỢI


Lịch Sử Của Trà

Mừng Xuân Kỷ Hợi 2019

Xem video:  The History of Tea 

 
The history of tea (Lịch sử của trà)


During a long day spent roaming the forest in search of edible grains and herbs, the weary divine farmer Shennong accidentally poisoned himself 72 times.
Suốt 1 ngày dài lang thang trong rừng tìm kiếm các loại ngũ cốc và thảo dược ăn được, người nông dân rã rời được trời phù hộ Shennong đã vô tình tự đầu độc mình tới 72 lần.

But before the poisons could end his life, a leaf drifted into his mouth. He chewed on it and it revived him, and that is how we discovered tea. Or so an ancient legend goes at least.
Nhưng trước khi chất độc có thể kết liễu đời mình, một chiếc lá cuốn vào miệng ông. Ông đã nhai nó và tỉnh lại, và đó là cách chúng ta tìm ra trà. Hay ít nhất câu chuyện cổ kể vậy.

Tea doesn’t actually cure poisonings, but the story of Shennong, the mythical Chinese inventor of agriculture, highlights tea’s importance to ancient China.
Trà không thực sự chữa được ngộ độc, nhưng câu chuyện về Thần Nông, vị thần sáng tạo ra nền nông nghiệp Trung Quốc, đã làm nổi bật tầm quan trọng của trà đối với đất nước Trung Hoa cổ đại.

Archaeological evidence suggests tea was first cultivated there as early as 6,000 years ago, or 1,500 years before the pharaohs built the Great Pyramids of Giza.
Bằng chứng khảo cổ học cho thấy trà được trồng ở đây từ khoảng 6000 năm trước, hoặc 1500 năm trước khi Pharaoh xây dựng Kim tự tháp Giza.

That original Chinese tea plant is the same type that’s grown around the world today, yet it was originally consumed very differently. It was eaten as a vegetable or cooked with grain porridge.
Loại trà gốc Hoa này cùng loại với trà được trồng trên khắp thế giới ngày nay, nhưng ban đầu nó được tiêu thụ rất khác nhau. Người ta ăn nó như rau hoặc nấu với cháo yến mạch.

Tea only shifted from food to drink 1,500 years ago when people realized that a combination of heat and moisture could create a complex and varied taste out of the leafy green.
Trà chỉ được chuyển đổi từ thức ăn sang thức uống từ 1,500 trước, khi người ta nhận ra sự kết hợp của nhiệt và độ ẩm có thể tạo ra một hương vị phức tạp và khác biệt của lá trà xanh.

After hundreds of years of variations to the preparation method, the standard became to heat tea, pack it into portable cakes, grind it into powder, mix with hot water, and create a beverage called muo cha, or matcha.
Trải qua hàng trăm năm biến thể công thức chế tạo, tiêu chuẩn trở thành trà sấy, gói thành những chiếc bánh nhỏ nhẹ có thể mang đi, rồi nghiền ra bột, hoà với nước nóng, và tạo nên một thức uống gọi là muo cha, hay matcha.

Matcha became so popular that a distinct Chinese tea culture emerged. Tea was the subject of books and poetry, the favorite drink of emperors, and a medium for artist. They would draw extravagant pictures in the foam of the tea, very much like the espresso art you might see in coffee shops today.
Matcha trở nên được ưa chuộng đến nỗi văn hoá danh trà Trung Hoa xuất hiện. Trà trở thành chủ đề của sách truyện và thi ca, thức uống ưa thích của hoàng đế, và là nguyên liệu của giới nghệ sĩ. Họ vẽ nên những bức tranh lộng lẫy trong bọt trà, rất giống nghệ thuật pha cà phê espresso thường thấy trong các tiệm cà phê ngày nay.

In the 9th century, during the Tang Dynasty, a Japanese monk brought the first tea plant to Japan. The Japanese eventually developed their own unique rituals around tea, leading to the creation of the Japanese tea ceremony.
Vào thế kỷ thứ 9, suốt thời nhà Đường, một mục sư người Nhật đã mang cây trà đầu tiên tới Nhật. Người Nhật phát triển nên những nghi thức độc đáo của riêng họ quanh cây trà, dẫn tới sự sáng tạo của trà đạo Nhật Bản.

And in the 14th century during the Ming Dynasty, The Chinese emperor shifted the standard from tea pressed into cakes to loose leaf tea. At that point, China still held a virtual monopoly on the world’s tea trees, making tea one of three essential Chinese export goods, along with porcelain and silk.
Và vào thế kỷ 14 thời nhà Minh, Hoàng Đế Trung Quốc đã thay đổi tiêu chuẩn từ trà ép thành bánh để tạo thành trà xanh lá rời. ở thời điểm đó, Trung Quốc gần như nắm độc quyền về trà trên thế giới, khiến trà trở thành một trong ba loại hàng xuất khẩu thiết yếu của đất nước này, cùng với đồ sứ và tơ lụa.

This gave China a great deal of power and economic influence as tea drinking spread around the world. That spread began in earnest around the early 1600s when Dutch traders brought tea to Europe in large quantities.
Điều này khiến Trung Quốc nắm trong tay rất nhiều quyền lực và tầm ảnh hưởng kinh tế vì thưởng trà đã lan rộng khắp thế giới. Chính thức trở nên phổ biến trong những năm đầu thế kỷ 16, khi những thương lái Hà Lan mang trà về châu Âu với số lượng lớn.

Many credit Queen Catherine of Braganza, a Portuguese noble woman, for making tea popular with the English aristocracy when she married King Charles II in 1661. At the time, Great Britain was in the midst of expanding its colonial influence and becoming the new dominant world power. And as Great Britain grew, interest in tea spread around the world.
Nhiều người tin rằng Nữ Hoàng Catherine xứ Braganza, một phụ nữ quý tộc người Bồ Đào Nha, đã khiến trà trở nên phổ biến với tầng lớp quý tộc Anh khi bà cưới Vua Charles II vào năm 1661. Tại thời điểm đó, Anh Quốc đang trong giữa thời kỳ mở rộng thuộc địa và dần trở thành tân cường quốc thống trị thế giới. Và khi Anh Quốc phát triển, mối quan tâm về trà càng lan rộng ra khắp thế giới.

By 1700, tea in Europe sold for ten times the price of coffee, and the plant was still only grow in China. The tea trade was so lucrative that the world’s fastest sailboat, the clipper ship, was born out of intense competition between Western trading companies. All was racing to bring their tea back to Europe first to maximize their profits.
Năm 1700, trà ở ở Châu Âu được bán với giá gấp 10 lần cà phê, và giống cây này vẫn chỉ được trồng ở Trung Hoa. Ngành thương mại trà béo bở đến nỗi chiếc thuyền buồm nhanh nhất thế giới, thuyền cao tốc, được ra đời dưới sự cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty thương mại Phương Tây. Tất cả các công ty ấy đều đã chạy đua, lần đầu tiên đem trà sang châu Âu để tối đa hoá lợi nhuận của mình.

At first, Britain paid for all this Chinese tea with silver. When that proved too expensive, they suggested trading tea for another substance, opium. This triggered a public health problem within China as people became addicted to the drug. Then in 1839, a Chinese official ordered his men to destroy massive British shipments of opium as a statement against Britain’s influence over China.
Ban đầu, nước Anh đã trả cho tất cả các loại trà Trung Quốc này bằng bạc. Khi người ta chứng minh là như thế quá đắt, họ đề xuất giao thương trà với một chất khác, thuốc phiện. Điều này đã gây nên vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng đối với Trung Quốc vì người dân trở nên nghiện thuốc phiện. Sau đó, vào năm 1839, một quan chức Trung Quốc đã ra lệnh cho cấp dưới của mình phá huỷ các lô hàng thuốc phiện kếch xù đến từ Anh quốc, như một lời tuyên bố chống lại sự ảnh hưởng của Anh tới Trung Quốc.

This act triggered the First opium War between the two nations. Fighting raged up and down the Chinese coast until 1842 when the defeated Qing Dynasty ceded the port of Hong Kong to the British and resumed trading on unfavorable terms.
Hành động này đã châm ngòi nên cuộc chiến tranh Nha phiến giữa 2 quốc gia. Chiến tranh nổ ra ác liệt dọc bờ theo biển Trung Hoa cho đến năm 1842, Nhà Thanh bại trận đã phải nhượng cảng Hồng Kông cho nước Anh và nối lại thương mại trên các điều khoản bất lợi.

The war weakened China’s global standing for over a century. The British East India company also wanted to be able to grow tea themselves and further control the market. So they commissioned botanist Robert Fortune to steal tea from China in a covert operation.
Chiến tranh làm suy yếu vị trí của Trung Quốc trên khắp toàn cầu trong suốt hơn một thế kỷ. Công ty Đông Ấn Anh Quốc cũng muốn tự mình trồng trà và kiểm soát thị trường hơn nữa. Vì vậy, họ đã giao cho nhà thực vật học Robert Fortune nhiệm vụ trộm trà từ Trung Quốc trong một hoạt động bí mật.

He disguised himself and took a perilous journey through China’s mountainous tea regions, eventually smuggling tea trees and experienced tea workers into Darjeeling, India.
Ông đã cải trang và có một chuyến hành trình cực kỳ nguy hiểm xuyên qua những vùng núi trồng trà ở Trung Quốc, rồi cuối cùng buôn những cây trà và truyền kinh nghiệm cho những công nhân trồng trà ở Darjeeling, Ấn Độ.

From there, the plant spread further still, helping drive tea’s rapid growth as an everyday commodity. Today, tea is the second most consumed beverage in the world after water, and from sugary Turkish Rize tea, to salty Tibetan butter tea, there are almost as many ways of preparing the beverage as there are cultures on the globe.
Kể từ đó, giống cây này ngày càng được lan rộng, giúp đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng trà, trở thành mặt hàng (được tiêu dùng) hàng ngày. Ngày nay, trà là thức uống được tiêu thụ nhiều thứ hai trên thế giới sau nước, và từ trà đường Rize Thổ Nhĩ Kỳ, tới trà bơ muối Tây Tạng, có hầu hết rất nhiều công thức chế biến tương ứng với các nền văn hoá trên toàn thế giới.

 

Kỷ Hợi 001

Mừng Xuân Kỷ Hợi 2019



Nhiếp ảnh có phải là một môn nghệ thuật ?

Is Photography art?


Nhiếp ảnh có phải là một môn nghệ thuật ?


This may seem a pointless question today
Thời nay thì có vẻ như đây là câu hỏi vô nghĩa



This may seem a pointless question today
Thời nay thì có vẻ như đây là câu hỏi vô nghĩa

Surrounded as we are by thousands of photographs, most of us take for granted that, in addition to supplying information and seducing customers, camera images also serve as decoration, afford spiritual enrichment, and provide significant insights into the passing scene
Hầu hết chúng ta đều chắc rằng hàng ngàn bức ảnh chung quanh ta là để cung cấp thông tin và thu hút sự chú ý của khách hàng, các ảnh chụp còn được xem như món đồ trang trí, làm phong phú thêm về mặt tâm hồn, và cung cấp những thấu hiểu to lớn về những gì đang diễn ra

But in the decades following the discovery of photography, this question reflected the search for ways to fit the mechanical medium into the traditional schemes of artistic expression
Nhưng trong hàng thập kỷ kể từ khi phát hiện ra nhiếp ảnh, câu hỏi này phản ánh sự tìm kiếm các cách để áp dụng môi trường cơ học vào trong lược đồ truyền thống về biểu cảm nghệ thuật.

The much-publicized pronouncement by painter Paul Delaroche that the daguerreotype* signalled the end of painting is perplexing because this clever artist also forecast the usefulness of the medium for graphic artists in a letter written in 1839.
Hoạ sĩ Paul Delaroche đã công bố rộng rãi trong một bức thư viết vào năm 1839, rằng phép tạo hình Dague đã báo hiệu sự kết thúc của hội hoạ đã gây rúng động, bởi vì nhà họa sĩ tài giỏi này cũng dự báo sự hữu dụng của môi trường cơ học đối với nghệ sĩ đồ hoạ

Nevertheless, it is symptomatic of the swing between the outright rejection and qualified acceptance of the medium that was fairly typical of the artistic establishment
Tuy nhiên, nó là triệu chứng lơ lửng giữa việc từ chối hoàn toàn và chấp nhận bảo lưu môi trường cơ học, điều này tương đối khá đặc trưng trong việc kiến lập nghệ thuật.

Discussion of the role of photography in art was especially spirited in France, where the internal policies of the time had created a large pool of artists, but it was also taken up by important voices in England
Cuộc thảo luận về vai trò của nhiếp ảnh đã đặc biệt được cổ vũ tại Pháp, nơi mà các chính sách nội bộ đã tạo nên các nhóm nghệ sĩ thời đó, và nó cũng đưa ra những tiếng nói quan trọng tại nước Anh.

In both countries, public interest in this topic was a reflection of the belief that national stature and achievement in the arts were related
Ở cả hai nước, sự quan tâm của công chúng đến chủ đề này là phản ánh niềm tin rằng sự mức phát triển của quốc gia có liên quan đến thành tựu trong nghệ thuật.

From the maze of conflicting statements and heated articles on the subject, three main positions about the potential of camera art emerged.
Từ những tuyên bố mâu thuẫn và các bài viết nóng về chủ đề này, thì đã nổi bật lên ba điểm chủ yếu về tiềm năng nhiếp ảnh.

The simplest, entertained by many painters and a section of the public, was that photographs should not be considered ‘art’ because they were made with a mechanical device and by physical and chemical phenomena instead of by human hand and spirit; to some, camera images seemed to have more in common with fabric produced by machinery in a millthan with handmade creations fired by inspiration.
Điểm đơn giản nhất, nhiều hoạ sĩ và một bộ phận công chúng đã được thưởng thức các bức ảnh chụp nhưng chúng không được đánh giá là tác phẩm nghệ thuật bởi vì chúng được tạo ra từ thiết bị cơ học và các hiện tượng vật lý và hoá học thay vì từ bàn tay và trí tuệ của con người, một vài ảnh chụp dường như có nhiều đặc điểm gần như thứ được sản xuất hàng loạt hơn là tác phẩm thủ công bùng cháy đầy sự cảm hứng

The second widely held view, shared by painters, some photographers, and some critics, was that photographs would be useful to art but should not be considered equal in creativeness to drawing and painting.
Điểm thứ hai đã được các hoạ sĩ, một số nhà nhiếp ảnh, và một vài nhà phê bình nêu ra rằng những bức ảnh tuy hữu ích đối với nghệ thuật nhưng không nên đánh giá ngang hàng về mặt sáng tạo giữa tranh vẽ và hội hoạ.

Lastly, by assuming that the process was comparable to other techniques such as etching and lithography, a fair number of individuals realized that camera images were or could be as significant as handmade works of art and that they might have a positive influence on the arts and on culture in general.
Điểm cuối cùng, giả định rằng quá trình chụp có thể so sánh được với các kỹ thuật khác như là khắc ăn mòn, khắc điện tử, có một số cá nhân nhận ra rằng các ảnh chụp có thể có ý nghĩa như các tác phẩm nghệ thuật thủ công và rằng chúng có thể có ảnh hưởng tích cực đến nghệ thuật và văn hoá nói chung.

Artists reacted to photography in various ways.
Nhiều nghệ sĩ phản ứng với nhiếp ảnh theo nhiều cách khác nhau.

Many portrait painters - miniaturists in particular - who realized that photography represented the ‘handwriting on the wall’ became involved with daguerreotyping or paper photography in an effort to save their careers; some incorporated it with painting, while others renounced painting altogether.
Nhiều họa sĩ chân dung - những họa sĩ tiểu họa nói riêng - đã nhận ra rằng nhiếp ảnh đại diện cho 'chữ viết tay trên tường' đã bị hút vào việc tạo hình Daguer hoặc nhiếp ảnh giấy với nỗ lực để cứu lấy sự nghiệp của họ; một số kết hợp nó hội hoạ, một số khác loại bỏ hội hoạ hoàn toàn.

Still other painters, the most prominent among them the French painter, Jean- Auguste-Dominique Ingres, began almost immediately to use photography to make a record of their own output and also to provide themselves with source material for poses and backgrounds,vigorously denying at the same time its influence on their vision or its claims as art.
Các họa sỹ khác, nổi bật nhất là họa sĩ người Pháp Jean-Auguste-Dominique Ingres bắt đầu gần như ngay lập tức sử dụng nhiếp ảnh để ghi lại các sản phẩm của chính mình và cũng cung cấp cho họ các tư liệu nguồn cho các tư thế và bối cảnh chụp, mạnh mẽ phủ nhận đồng thời sự ảnh hưởng của ảnh lên sự tưởng tượng của họ hay là các tuyên bố về ảnh như là nghệ thuật.

The views that photographs might be worthwhile to artists was enunciated in considerable detail by Lacan and Francis Wey.
Quan điểm cho rằng các bức ảnh có thể là giá trị đối với các nghệ sỹ được Lacan và Francis Wey miêu tả chi tiết về chúng.

The latter, an art and literary critic, who eventually recognised that camera images could be inspired as well as informative, suggested that they would lead to greater naturalness in the graphic depiction of anatomy, clothing, likeness, expression, and landscape.
Người sau (tức ông Francis Wey), một nhà phê bình văn học và nghệ thuật rốt cuộc nhận ra rằng, bên cạnh có tính chất mang thông tin, ảnh chụp còn có thể được truyền cảm hứng, ông đã cho rằng ảnh chụp mang sự tự nhiên hơn trong các mô tả đồ họa về giải phẫu học, trang phục, chân dung, biểu cảm và cảnh quan.

By studying photographs, true artists, he claimed, would be relieved of menial tasks and become free to devote themselves to the more important spiritual aspects of their work.
Bằng cách nghiên cứu các bức ảnh, ông cho biết các nghệ sĩ chân chính sẽ được giải phóng khỏi các công việc nhân bản và trở nên tự do để cống hiến nhiều hơn về phần hồn trong sáng tác của họ.

Wey left unstated what the incompetent artist might do as an alternative, but according to the influential French critic and poet Charles Baudelaire, writing in response to an exhibition of photography in 1859, lazy and untalented painters would become photographers.
Wey đã để lại những điều chưa công bố rằng các nghệ sỹ thiếu năng lực có thể làm nhiếp ảnh như một sự lựa chọn thay thế, tuy nhiên, theo nhà phê bình có tầm ảnh hưởng cũng là nhà thơ người Pháp Charles Baudelaire, viết thư hồi đáp cho một cuộc triển lãm nhiếp ảnh vào năm 1859 rằng những hoạ sĩ lười biếng và không có tài năng nên trở thành nhiếp ảnh gia.

Fired by a belief in art as an imaginative embodiment of cultivated ideas and dreams, Baudelaire regarded photography as ‘a very humble servant of art and science’; a medium largely unable to transcend ‘external reality’.
Baudelaire bùng cháy bởi niềm tin vào nghệ thuật như là một hiện thân giàu trí tưởng tượng về những ý tưởng và giấc mơ được trau dồi, Baudelaire xem nhiếp ảnh là một " người đầy tớ của nghệ thuật và khoa học rất khiêm tốn", là một phương tiện không thể vượt qua được "thực tế bên ngoài".

For this critic, photography was linked with ‘the great industrial madness’ of the time, which in his eyes exercised disastrous consequences on the spiritual qualities of life and art.
Đối với nhà phê bình này, nhiếp ảnh gắn liền với "sự điên rồ công nghiệp vĩ đại" của thời đại, nó trong mắt ông các hậu quả tai hại đã được rèn trên phẩm chất tinh thần trong cuộc sống và nghệ thuật.

Eugene Delacroix was the most prominent of the French artists who welcomed photography as help-mate but recognized its limitations.
Eugene Delacroix là nghệ sĩ lỗi lạc nhất của Pháp, người đã hoan nghênh nhiếp ảnh làm bạn tình nhưng thừa nhận những hạn chế của nó.

Regretting that ‘such a wonderful invention’ had arrived so late in his lifetime, he still took lessons in daguerreotyping, and both commissioned and collected photographs.
Ông tiếc nuối rằng "một phát minh tuyệt vời" đã đến muộn như vậy trong suốt cuộc đời của ông, ông vẫn tiếp tục các học các bài học về phép tạo hình Daguer và nhiếp ảnh chụp và sưu tập ảnh.

Delacroix’s enthusiasm for the medium can be sensed in a journal entry noting that if photographs were used as they should be, an artist might ‘raise himself to heights that we do not yet know’.
Sự nhiệt tình của Delacroix đối với phương tiện có thể được cảm nhận trong một bài viết trong tạp chí ghi nhận rằng nếu các bức ảnh được sử dụng đúng như mong đợi, một người nghệ sỹ có thể "tự nâng bản thân mình lên tầm cao mà chúng ta vẫn chưa biết đến".

The question of whether the photograph was document or art aroused interest in England also.
Câu hỏi về việc liệu bức ảnh đó có phải là tư liệu hay nghệ thuật đáng quan tâm nổi bật của người Anh.

The most important statement on this matter was an unsigned article that concluded that while photography had a role to play, it should not be ‘constrained’ into ‘competition’ with art; a more stringent viewpoint led critic Philip Gilbert Hamerton to dismiss camera images as ‘narrow in range, emphatic in assertion, telling one truth for ten falsehoods’.
Tuyên bố quan trọng nhất về vấn đề này là một bài báo không có ghi tác giả đã kết luận rằng trong khi nhiếp ảnh có một vai trò để giải trí, thì nó không nên bị "ép buộc" vào "cuộc thi" nghệ thuật; một quan điểm khắt khe hơn đã khiến nhà phê bình Philip Gilbert Hamerton chối bỏ ảnh chụp như là "hẹp trong phạm vi, nhấn mạnh trong sự khẳng định, nói một sự thật cho mười sai lầm".

These writers reflected the opposition of a section of the cultural elite in England and France to the ‘cheapening of art’ which the growing acceptance and purchase of camera pictures by the middle class represented.
Những nhà văn phản ánh sự chống đối của một bộ phận của giới tinh hoa văn hoá ở Anh và Pháp để "làm giảm giá trị của nghệ thuật" mà sự chấp nhận và sự mua ảnh chụp ngày càng tăng của đại diện các tầng lớp trung lưu.

Technology made photographic images a common sight in the shop windows of Regent Street and Piccadilly in London and the commercial boulevards of Paris.
Công nghệ tạo ra những bức ảnh chụp cận cảnh các ô trưng bày trên đường Regent và Piccadilly ở London và những đại lộ thương mại của Paris.

In London, for example, there were at the time some 130 commercial establishments where portraits, landscapes, and photographic reproductions of works of art could be bought.
Chẳng hạn ở Luân Đôn đã có khoảng 130 trung tâm thương mại bày bán các chân dung, cảnh quan, và các bản sao tác phẩm nhiếp ảnh.

This appeal to the middle class convinced the elite that photographs would foster a desire for realism instead of idealism, even though some critics recognized that the work of individual photographers might display an uplifting style and substance that was consistent with the defining characteristics of art.

Sự hấp dẫn này đối với tầng lớp trung lưu đã thuyết phục tầng lớp ưu tú rằng các bức ảnh sẽ thúc đẩy mong muốn chủ nghĩa hiện thực hơn là chủ nghĩa duy tâm, mặc dù một số nhà phê bình nhận ra rằng công việc của các nhiếp ảnh gia cá nhân có thể thể hiện một phong cách hứng khởi và đa chiều, đúng theo việc xác định các đặc tính của nghệ thuật.

NGỌC THU

ARTCANDY SHOP NGỌC THU -     Trên   bước   đường   THÀNH   CÔNG , không   có   dấu   chân   của   những   kẻ   LƯỜI   BIẾNG . ...