Crop growing skyscrapers = TRỒNG TRỌT TRÊN NHỮNG TÒA NHÀ CHỌC TRỜI

 





A

By the year 2050, nearly 80% of the Earth's population will live in urban centres.

Đến năm 2050 sẽ có gần 80% dân số Trái Đất sinh sống tại các trung tâm đô thị.


Applying the most conservative estimates to current demographic trends, the human population will increase by about three billion people by then.

Những ước tính thận trọng nhất theo xu hướng nhân khẩu học hiện nay cho thấy đến 2050 dân số thế giới sẽ tăng thêm khoảng ba tỷ người.


An estimated 109 hectares of new land (about 20% larger than Brazil) will be needed to grow enough food to feed them, if traditional farming methods continue as they are practised today.

Để đảm bảo nguồn cung lương thực cho 3 tỷ người này, chúng ta sẽ cần thêm khoảng 109 ha diện tích đất chưa canh tác (lớn hơn diện tích của Brazil khoảng 20%) trong trường hợp chúng ta vẫn tiếp tục áp dụng những phương pháp canh tác truyền thống hiện nay.


At present, throughout the world, over 80% of the land that is suitable for raising crops is in use.

Hiện tại, trên toàn thế giới, hơn 80% diện tích đất thích hợp cho trồng trọt hiện đã và đang được khai thác rồi.


Historically, some 15% of that has been laid waste by poor management practices.

Về mặt lịch sử, khoảng 15% trong lượng đất đó đã bị lãng phí bởi những tập quán quản lý yếu kém của con người.

B

What can be done to ensure enough food for the world's population to live on ? The concept of indoor farming is not new, since hothouse production of tomatoes and other produce has been in vogue for some time.

Vậy thì phải làm gì để đảm bảo nguồn lương thực cho toàn bộ dân số thế giới? Khái niệm canh tác trong nhà không phải là mới, nhất là khi việc sản xuất cà chua và các sản phẩm khác trong nhà kính đã trở nên phổ biến được một thời gian rồi.


What is new is the urgent need to scale up this technology to accommodate another three billion people.

Điều mới ở đây là nhu cầu cấp thiết phải nhân rộng công nghệ này nhằm đáp ứng cho nhu cầu của 3 tỷ người kia nữa.


Many believe an entirely new approach to indoor farming is required, employing cutting-edge technologies.

Nhiều người tin rằng cần có một cách tiếp cận hoàn toàn mới đối với việc canh tác trong nhà, áp dụng những công nghệ tiên tiến.


One such proposal is for the 'Vertical Farm'.

"Nông trại theo chiều dọc" là 1 ý tưởng như thế.


The concept is of multi-storey buildings in which food crops are grown in environmentally controlled conditions.

Lý thuyết của nó là sử dụng các tòa nhà cao tầng, tại đó, các cây lương thực được trồng trong môi trường được kiểm soát.


Situated in the heart of urban centres, they would drastically reduce the amount of transportation required to bring food to consumers.

Nằm ở trung tâm của các trung tâm đô thị, chúng sẽ giúp giảm đáng kể chi phí vận chuyển thực phẩm đến với người tiêu dùng.


Vertical farms would need to be efficient, cheap to construct and safe to operate.

Các nông trại theo chiều dọc cần phải có tính hiệu quả, chi phí xây dựng thấp đồng thời an toàn trong vận hành.


If successfully implemented, proponents claim, vertical farms offer the promise of urban renewal, sustainable production of a safe and varied food supply (through year-round production of all crops), and the eventual repair of ecosystems that have been sacrificed for horizontal farming.

Những người đưa ra ý tưởng này khẳng định rằng nếu được áp dụng thành công, các nông trại theo chiều dọc hứa hẹn sẽ thay đổi bộ mặt đô thị, cung cấp nguồn lương thực an toàn, đa dạng lâu dài (thông qua việc trồng trọt quanh năm mọi giống cây lương thực), và thậm chí chúng ta còn tu sửa lại các hệ sinh thái trước kia đã phải hy sinh cho việc canh tác theo chiều ngang.

C

It took humans 10,000 years to learn how to grow most of the crops we now take for granted.

Con người đã phải mất đến 10,000 năm để học cách trồng trọt hầu hết những loại cây trồng mà ngày nay chúng ta đang có.


Along the way, we despoiled most of the land we worked, often turning verdant, natural ecozones into semi-arid deserts.

Trong quá trình đó, chúng ta đã làm cho những vùng đất trồng trọt bị thoái hóa, thường biến những đồng cỏ xanh tươi hay những khu sinh thái tự nhiên thành những sa mạc khô cằn.

Within that same time frame, we evolved into an urban species, in which 60% of the human population now lives vertically in cities.

Cũng trong thời gian ấy, chúng ta tiến hóa thành một giống loài đô thị mà ngày nay đến 60% loài người sống trong các tòa nhà cao tầng trong các thành phố.


This means that, for the majority, we humans have shelter from the elements, yet we subject our food-bearing plants to the rigours of the great outdoors and can do no more than hope for a good weather year.

Điều này cho thấy rằng phần đông chúng ta ẩn nấp khỏi các điều kiện tự nhiên, nhưng rồi lại bỏ mặc những loài cây cung cấp lương thực cho chúng ta tự đối mặt với những điều kiện khắc nghiệt của môi trường, còn chúng ta chẳng thể làm gì hơn ngoài việc cầu mong thời tiết thuận lợi.


However, more often than not now, due to a rapidly changing climate, that is not what happens.

Tuy vậy, bởi sự thay đổi khí hậu quá nhanh chóng mà điều đó càng ngày càng khó theo mong muốn của chúng ta.


Massive floods, long droughts, hurricanes and severe monsoons take their toll each year, destroying millions of tons of valuable crops.

Những trận lũ lụt lớn, những đợt hạn hán kéo dài, những cơn bão hay những đợt gió mùa khắc nghiệt gây thiệt hại hàng năm, phá hủy hàng triệu tấn nông sản có giá trị.

D

The supporters of vertical farming claim many potential advantages for the system.

Những người ủng hộ việc canh tác theo chiều dọc đưa ra rất nhiều những lợi ích tiềm tàng của hệ thống.


For instance, crops would be produced all year round, as they would be kept in artificially controlled, optimum growing conditions.

Ví dụ nông sản sẽ được sản xuất quanh năm, bởi chúng được trồng trong những điều kiện tối ưu nhất kiểm soát bởi con người.


There would be no weather-related crop failures due to droughts, floods or pests.

Sẽ không có sự mất mùa bởi thời tiết vì hạn hán, lũ lụt hoặc sâu bệnh.


All the food could be grown organically, eliminating the need for herbicides, pesticides and fertilisers.

Toàn bộ thực phẩm có thể được trồng một cách hữu cơ, không cần thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu hay phân bón.


The system would greatly reduce the incidence of many infectious diseases that are acquired at the agricultural interface.

Hệ thống canh tác theo chiều dọc sẽ giúp giảm đáng kể tỷ lệ mắc nhiều căn bệnh truyền nhiễm từ nông nghiệp.


Although the system would consume energy, it would return energy to the grid via methane generation from composting nonedible parts of plants.

Mặc dù hệ thống tiêu thụ năng lượng nhưng cũng sẽ trả lại năng lượng vào mạng lưới điện thông qua việc tạo thành khí mê-tan từ quá trình phân hủy những phần không ăn được của cây trồng.


It would also dramatically reduce fossil fuel use, by cutting out the need for tractors, ploughs and shipping.

Nó cũng giúp giảm đáng kể lượng nhiên liệu hóa thạch tiêu thụ nhờ giảm thiểu nhu cầu sử dụng máy kéo, máy cày hay chuyển hàng.

E

A major drawback of vertical farming, however, is that the plants would require artificial light.

Tuy nhiên, trở ngại chính của việc canh tác theo chiều dọc nằm ở chỗ cây trồng đòi hỏi phải có ánh sáng nhân tạo.


Without it, those plants nearest the windows would be exposed to more sunlight and grow more quickly, reducing the efficiency of the system.

Nếu không có ánh sáng nhân tao, những cây trồng ở gần cửa sổ sẽ nhận được nhiều ánh sáng mặt trời hơn, phát triển nhanh hơn, làm giảm hiệu quả chung của hệ thống.

Single-storey greenhouses have the benefit of natural overhead light; even so, many still need artificial lighting.

Nhà kính đơn tầng được lợi từ ánh sáng tự nhiên nhưng kể cả như vậy thì chúng vẫn cần có ánh sáng nhân tạo nữa.


A multi-storey facility with no natural overhead light would require far more.

Một hệ thống đa tầng không có ánh sáng tự nhiên sẽ càng đòi hỏi nhiều hơn nữa.


Generating enough light could be prohibitively expensive, unless cheap, renewable energy is available, and this appears to be rather a future aspiration than a likelihood for the near future.

Việc tạo ra đủ ánh sáng có lẽ quá tốn kém, trừ phi chúng ta có sẵn nguồn năng lượng tái sinh giá rẻ, điều này lại dường như khó có khả năng xảy ra trong tương lai gần.

F

One variation on vertical farming that has been developed is to grow plants in stacked trays that move on rails.

Một biến thể của việc canh tác theo chiều dọc đã được phát triển là trồng cây trong các chồng khay di động theo đường ray.


Moving the trays allows the plants to get enough sunlight.

Sự di chuyển của các khay cho phép cây trồng nhận được đủ lượng ánh sáng mặt trời.


This system is already in operation, and works well within a single-storey greenhouse with light reaching it from above: it Is not certain, however, that it can be made to work without that overhead natural light.

Hệ thống này đã được vận hành và hoạt động khá ổn ở một nhà kính đơn tầng nhận ánh sáng tự nhiên từ phía trên: mặc dù không chắc chắn nhưng nó có thể đi vào hoạt động mà không cần ánh sáng tự nhiên từ phía trên đó.

G

Vertical farming is an attempt to address the undoubted problems that we face in producing enough food for a growing population.

Canh tác nông nghiệp theo chiều dọc là một nỗ lực để giải quyết những vấn đề rõ ràng mà chúng ta phải đối mặt để cung cấp đủ nguồn lương thực cho dân số ngày một gia tăng.

At the moment, though, more needs to be done to reduce the detrimental impact it would have on the environment, particularly as regards the use of energy.

Dù vậy, hiện nay chúng ta còn cần phải giảm những tác động gây hại đến môi trường, đặc biệt là việc sử dụng năng lượng.


While it is possible that much of our food will be grown in skyscrapers in future, most experts currently believe it is far more likely that we will simply use the space available on urban rooftops.

Mặc dù rất nhiều loại lương thực cũng sẽ có thể được trồng ở các tòa nhà chọc trời trong tương lai nhưng hầu hết các chuyên gia hiện tại đều tin tưởng rằng đơn giản chúng ta sẽ chỉ sử dụng không gian có sẵn trên các mái nhà đô thị mà thôi.

Raising the Mary Rose TRỤC VỚT CHIẾN HẠM MARY ROSE

 




How a sixteenth-century warship was recovered from the seabed.
Một chiến hạm của thế kỷ XVI đã được trục vớt khỏi đáy biển như thế nào.

A

On 19 July 1545, English and French fleets were engaged in a sea battle off the coast of southern England in the area of water called the Solent, between Portsmouth and the Isle of Wight.
Vào ngày 19 tháng 7 năm 1545, hải quân Anh và Pháp đã chạm trán với nhau ngoài khơi bờ biển phía nam nước Anh tại vùng biển Solent nằm giữa Portsmouth và đảo Wight.

Among the English vessels was a warship by the name of Mary Rose.
Chiến hạm Mary Rose là 1 trong số các chiến hạm của hải quân Anh.

Built in Portsmouth some 35 years earlier, she had had a long and successful fighting career, and was a favourite of King Henry VIII.
Được đóng khoảng 35 năm trước đó ở Portsmouth, Mary Rose đã đạt được nhiều chiến công trong quãng thời gian chiến đấu lâu dài của mình và nó cũng là chiến hạm được vua Henry VIII rất yêu thích.

Accounts of what happened to the ship vary: while witnesses agree that she was not hit by the French, some maintain that she was outdated, overladen and sailing too low in the water, others that she was mishandled by undisciplined crew.
Nhiều giả thuyết về điều xảy ra với Mary Rose đã được đưa ra: trong khi các nhân chứng đều khẳng định rằng Mary Rose không bị đánh chìm bởi hải quân Pháp, một số giả thuyết khác thì cho rằng nó đã quá cũ kỹ, chở quá tải, đáy tàu chìm quá sâu dưới nước, hoặc là nó đã bị mất kiểm soát bởi những thủy thủ vô kỷ luật.

What is undisputed, however, is that the Mary Rose sank into the Solent that day, taking at least 500 men with her.
Tuy vậy, điều không thể chối cãi là Mary Rose đã chìm xuống vùng biển Solent ngày hôm ấy và kéo theo nó ít nhất 500 thủy thủ.

After the battle, attempts were made to recover the ship, but these failed.
Sau trận chiến, những nỗ lực tìm lại con tàu đều bị thất bại.

B

The Mary Rose came to rest on the seabed, lying on her starboard (right) side at an angle of approximately 60 degrees.
Mary Rose chìm xuống đáy biển, nằm nghiêng về phía mạn phải tàu 1 góc xấp xỉ 60 độ.

The hull (the body of the ship) acted as a trap for the sand and mud carried by Solent currents.
Thân tàu hoạt động như một cái bẫy giữ cát và bùn do các dòng hải lưu chảy qua.

As a result, the starboard side filled rapidly, leaving the exposed port (left) side to be eroded by marine organisms and mechanical degradation.
Kết quả là phía mạn phải bị vùi lấp nhanh chóng, để lại mạn trái tàu lộ ra bị ăn mòn vật lý cũng như ăn mòn bởi các sinh vật biển.

Because of the way the ship sank, nearly all of the starboard half survived intact.
Do con tàu bị chìm theo cách như vậy nên hầu như toàn bộ mạn phải vẫn còn giữ được khoảng 50% nguyên vẹn.

During the seventeenth and eighteenth centuries, the entire site became covered with a layer of hard grey clay, which minimised further erosion.
Trải qua 2 thế kỷ XVII và XVIII, toàn bộ khu vực này lại được một lớp đất sét xám cứng phủ lên, giúp giảm thiểu sự ăn mòn.

C

Then, on 16 June 1836, some fishermen in the Solent found that their equipment was caught on an underwater obstruction, which turned out to be the Mary Rose.
Sau đó, vào ngày 16 tháng 6 năm 1836, một số ngư dân ở Solent đã tìm thấy các dụng cụ đánh cá của mình bị mắc vào một vật thể ở dưới nước mà hóa ra sau này lại được xác định là tàu Mary Rose.

Diver John Deane happened to be exploring another sunken ship nearby, and the fishermen approached him, asking him to free their gear.
Những ngư dân nhờ thợ lặn John Deane, người khi đó đang thám hiểm một con tàu đắm ở gần đấy, đến gỡ các dụng cụ đánh cá kia lên.

Deane dived down, and found the equipment caught on a timber protruding slightly from the seabed.
Khi Deane lặn xuống dưới, ông thấy chúng bị mắc vào một thanh gỗ hơi nhô lên khỏi đáy biển.

Exploring further, he uncovered several other timbers and a bronze gun.
Tìm kiếm thêm, ông lại phát hiện được vài thanh gỗ và 1 khẩu súng đồng nữa.

Deane continued diving on the site intermittently until 1840, recovering several more guns, two bows, various timbers, part of a pump and various other small finds.
Deane tiếp tục lặn tìm trong khu vực này đến tận năm 1840, ông đã tìm được thêm vài khẩu súng, 2 cung tên, rất nhiều thanh gỗ, 1 bộ phận của máy bơm và rất nhiều những thứ linh tinh khác.

D

The Mary Rose then faded into obscurity for another hundred years.
Chiến hạm Mary Rose sau đó lại chìm vào quên lãng trong khoảng một trăm năm nữa.

But in 1965, military historian and amateur diver Alexander McKee, in conjunction with the British Sub-Aqua Club, initiated a project called ‘Solent Ships’.
Tuy nhiên, đến năm 1965, Alexander McKee, 1 sử gia quân sự đồng thời cũng là 1 thợ lặn nghiệp dư, đã hợp tác với câu lạc bộ lặn biển Sub-Aqua của Anh để khởi xướng dự án “Solent Ships”.

While on paper this was a plan to examine a number of known wrecks in the Solent, what McKee really hoped for was to find the Mary Rose.
Mặc dù trên giấy tờ thì dự án này nhằm mục đích khảo sát những xác tàu đắm đã biết ở vùng biển Solent, nhưng điều mà McKee thật sự mong muốn là có thể tìm thấy Mary Rose.

Ordinary search techniques proved unsatisfactory, so McKee entered into collaboration with Harold 
Edgerton, professor of electrical engineering at the Massachusetts Institute of Technology.
Các kỹ thuật dò tìm thông thường đều không được khả quan cho lắm nên McKee đã quyết định hợp tác với Harold Edgerton, giáo sư ngành kỹ thuật điện tại Học viện Massachusetts.

In 1967, Edgerton’s side-scan sonar systems revealed a large, unusually shaped object, which McKee believed was the Mary Rose.
Vào năm 1967, khi các hệ thống sonar quét sườn của giáo sư Edgerton phát hiện ra 1 vật thể lớn có hình dạng bất thường, Mc Kee tin rằng đó chính là chiến hạm Mary Rose.
E

Further excavations revealed stray pieces of timber and an iron gun.
Những tấm gỗ rời và 1 khẩu súng bằng sắt đã được tìm thấy ở những cuộc thăm dò tiếp theo.

But the climax to the operation came when, on 5 May 1971, part of the ship’s frame was uncovered.
Tuy vậy, đỉnh điểm của hoạt động này là vào ngày 5 tháng 5 năm 1971 khi mà 1 phần khung tàu đã được tìm thấy.

McKee and his team now knew for certain that they had found the wreck, but were as yet unaware that it also housed a treasure trove of beautifully preserved artefacts.
McKee và cả nhóm lúc bấy giờ đã chắc chắn rằng họ đã tìm được con tàu, chỉ có điều họ vẫn chưa biết rằng con tàu này cũng nắm giữ cả 1 kho báu các tạo vật tuyệt đẹp được bảo quản cẩn thận.

Interest in the project grew, and in 1979, The Mary Rose Trust was formed, with Prince Charles as its President and Dr Margaret Rule its Archaeological Director.
Lợi nhuận của dự án tăng vọt, đến năm 1979, Quỹ Mary Rose Trust được thành lập bởi Chủ tịch – Hoàng tử Charles và Giám đốc Khảo cổ học – Tiến sĩ Margaret Rule.

The decision whether or not to salvage the wreck was not an easy one, although an excavation in 1978 had shown that it might be possible to raise the hull.
Việc quyết định có trục vớt xác tàu lên hay không đối với họ là cả một vấn đề cho dù một cuộc thăm dò vào năm 1978 đã cho thấy có thể kéo thân tàu lên được.

While the original aim was to raise the hull if at all feasible, the operation was not given the go-ahead until January 1982, when all the necessary information was available.
Mặc dù mục đích ban đầu của họ là trục vớt thân tàu lên nếu có thể nhưng mãi đến tận tháng giêng năm 1982, khi tất cả các thông tin cần thiết được thu thập đầy đủ, họ mới bắt đầu tiến hành việc trục vớt.

F

An important factor in trying to salvage the Mary Rose was that the remaining hull was an open shell.
Trong nỗ lực trục vớt Mary Rose thì việc thân tàu hở sườn có ảnh hưởng rất lớn.

This led to an important decision being taken: namely to carry out the lifting operation in three very distinct stages.
Điều này đã khiến cho họ quyết định trục vớt tàu theo 3 giai đoạn riêng biệt.

The hull was attached to a lifting frame via a network of bolts and lifting wires.
Thân tàu được gắn vào khung đỡ thông qua mạng lưới dây cáp đỡ và bu lông.

The problem of the hull being sucked back downwards into the mud was overcome by using 12 hydraulic jacks.
Họ đã sử dụng 12 cái kích thủy lực để đảm bảo thân tàu không bị kéo ngược trở lại lớp bùn.

These raised it a few centimetres over a period of several days, as the lifting frame rose slowly up its four legs.
Sau vài ngày, những cái kích này nâng thân tàu lên được vài centimetes và 4 chân của khung đỡ cũng được nâng lên từ từ.

It was only when the hull was hanging freely from the lifting frame, clear of the seabed and the suction effect of the surrounding mud, that the salvage operation progressed to the second stage.
Chỉ đến khi thân tàu được neo tự do vào khung đỡ, tách ra khỏi đáy biển và không còn chịu lực hút từ lớp bùn xung quanh thì giai đoạn thứ 2 của công cuộc trục vớt mới được tiến hành.

In this stage, the lifting frame was fixed to a hook attached to a crane, and the hull was lifted completely clear of the seabed and transferred underwater into the lifting cradle.
Ở giai đoạn này, họ cố định khung đỡ tàu vào 1 cái móc cần cẩu và kéo thân tàu lên khỏi đáy biển rồi đưa nó vào giàn nâng dưới nước.

This required precise positioning to locate the legs into the stabbing guides’ of the lifting cradle.
Việc này đòi hỏi phải đặt các chân của khung đỡ vào chính xác vị trí của các lỗ giá trên giàn nâng.

The lifting cradle was designed to fit the hull jusing archaeological survey drawings, and was fitted with air bags to provide additional cushioning for the hull’s delicate timber framework.
Giàn nâng được thiết kế vừa khớp với thân tàu theo các bản vẽ thăm dò, khảo sát trước đó, nó còn được trang bị các túi khí để đệm đỡ thêm cho khung gỗ mỏng manh của thân tàu.

The third and final stage was to lift the entire structure into the air, by which time the hull was also supported from below.
Cuối cùng đến giai đoạn thứ 3, khi mà thân tàu đã được bảo vệ bởi cấu trúc phía dưới, toàn bộ hệ thống được nâng lên trên không trung.

Finally, on 11 October 1982, millions of people around the world held their breath as the timber skeleton of the Mary Rose was lifted clear of the water, ready to be returned home to Portsmouth.
Sau cùng thì vào ngày 11 tháng 10 năm 1982, hàng triệu người dân trên thế giới đã thở phào khi phần khung của chiến hạm Mary Rose được kéo lên khỏi mặt nước và sẵn sàng để đưa trở về quê nhà Portsmouth.

What destroyed the civilisation of Easter Island? Điều gì đã phá hủy nền văn minh của đảo Phục Sinh?

 A


Easter Island, or Rapu Nui as it is known locally, is home to several hundred ancient human statues - the moai.

Đảo Phục Sinh, được biết với tiếng địa phương Rapu Nui, là nơi tồn tại hàng trăm pho tượng người cổ đại - moai.


After this remote Pacific island was settled by the Polynesians, it remained isolated for centuries.
Sau khi người Polynesia di cư đến hòn đảo xa xôi của Thái Bình Dương này, đảo Phục Sinh vẫn tách biệt với thế giới trong nhiều thế kỷ.

All the energy and resources that went into the moai - some of which are ten metres tall and weigh over 7,000 kilos - came from the island itself.

Tất cả nguồn năng lượng và tài nguyên để tạo nên các pho tượng moai – một số cao đến 10 mét và nặng hơn 7,000 kg – đều bắt nguồn từ hòn đảo này.


Yet when Dutch explorers landed in 1722, they met a Stone Age culture.

Đến tận năm 1722 khi những nhà thám hiểm Hà Lan đặt chân lên đảo, họ mới phát hiện được một nền văn hóa thời đồ đá.


The moai were carved with stone tools, then transported for many kilometres, without the use of animals or wheels, to massive stone platforms.

Các tượng moai này được chạm khắc bằng các dụng cụ bằng đá, sau đó được vận chuyển nhiều cây số đến các nền đá lớn mà không cần đến sự hỗ trợ của bánh xe hay sức kéo từ động vật.

The identity of the moai builders was in doubt until well into the twentieth century.

Danh tính của những người chế tạo ra moai vẫn còn là ẩn số cho đến tận thế kỷ XX.


Thor Heyerdahl, the Norwegian ethnographer and adventurer, thought the statues had been created by pre-Inca peoples from Peru.

Thor Heyerdahl, một nhà dân tộc học đồng thời cũng là một nhà thám hiểm người Na Uy, cho rằng các bức tượng này đã được tạo ra bởi tổ tiên của người Inca ở Peru.


Bestselling Swiss author Erich von Daniken believed they were built by stranded extraterrestrials.
Tác giả có ấn phẩm bán chạy nhất người Thụy Sỹ, Erich von Daniken thì lại tin rằng chúng được chế tạo bởi những người ngoài hành tinh bị mắc kẹt ở đây.


Modern science - linguistic, archaeological and genetic evidence - has definitively proved the moai builders were Polynesians, but not how they moved their creations.

Những bằng chứng về ngôn ngữ học, khảo cổ học và di truyền học hiện đại đã chỉ rõ ra rằng người Polynesia là những người đã chế tạo nên những bức tượng này, nhưng cách họ di chuyển chúng vẫn chưa được phát hiện ra.


Local folklore maintains that the statues walked, while researchers have tended to assume the ancestors dragged the statues somehow, using ropes and logs.

Theo truyền thuyết địa phương thì những bức tượng tự di chuyển, trong khi các nhà nghiên cứu lại cho rằng tổ tiên chúng ta bằng một cách nào đó đã kéo những bức tượng đi chỉ với dây thừng và những khúc gỗ.

 
B

When the Europeans arrived, Rapa Nui was grassland, with only a few scrawny trees.

Khi người châu Âu đến đây, đảo Phục Sinh là vùng đồng cỏ với rất ít cây thân cao.


In the 1970s and 1980s, though, researchers found pollen preserved in lake sediments, which proved the island had been covered in lush palm forests for thousands of years.

Tuy vậy, trong những năm 1970 và 1980, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy phấn hoa được bảo quản trong các trầm tích đáy hồ, chứng tỏ hòn đảo đã từng được bao phủ bởi những rừng cọ tươi tốt qua nhiều thiên niên kỷ.


Only after the Polynesians arrived did those forests disappear.

Những khu rừng ấy đã biến mất sau khi người Polynesia đặt chân lên hòn đảo.


US scientist Jared Diamond believes that the Rapanui people - descendants of Polynesian settlers - wrecked their own environment.

Nhà khoa học Mỹ Jared Diamond tin rằng những người Rapanui - hậu duệ của cư dân Polynesia - đã tàn phá môi trường của chính họ.


They had unfortunately settled on an extremely fragile island - dry, cool, and too remote to be properly fertilised by windblown volcanic ash.

Họ chẳng may lại di cư đến một hòn đảo cực kỳ mỏng manh - khô, mát, và quá xa xôi để có thể nhận được nguồn dinh dưỡng từ bụi tro núi lửa.


When the islanders cleared the forests for firewood and farming, the forests didn’t grow back.
Khi những cư dân trên đảo chặt phá rừng để lấy củi đốt và trồng trọt, những khu rừng này đã không mọc lại được.


As trees became scarce and they could no longer construct wooden canoes for fishing, they ate birds.

Vì lượng cây cối trở nên cạn kiệt, họ không thể làm thuyền bè bằng gỗ để đánh cá nữa nên chuyển sang ăn chim chóc.


Soil erosion decreased their crop yields.

Sự xói mòn đất làm giảm năng suất trồng trọt.


Before Europeans arrived, the Rapanui had descended into civil war and cannibalism, he maintains.
Ông cho rằng trước khi người châu Âu đến, người Rapanui đã rơi vào cuộc nội chiến và ăn thịt lẫn nhau.


The collapse of their isolated civilisation, Diamond writes, is a ’worst-case scenario for what may lie ahead of us in our own future’.

Diamond viết rằng, sự sụp đổ của nền văn minh bị cô lập của họ chính là ‘một viễn cảnh tệ hại nhất đối với những gì loài người sẽ phải đối mặt trong tương lai’.

 
C

The moai, he thinks, accelerated the self-destruction.

Ông cho rằng những bức tượng kia đã đẩy mạnh quá trình tự sụp đổ.

 

Diamond interprets them as power displays by rival chieftains who, trapped on a remote little island, lacked other ways of asserting their dominance. 

Diamond miêu tả chúng như là thứ để các thủ lĩnh đối lập, những người bị mắc kẹt ở một hòn đảo nhỏ xa xôi và chẳng có cách nào khác để khẳng định sự thống trị và phô trương sức mạnh của mình.

 

They competed by building ever bigger figures.

Họ cạnh tranh nhau bằng cách chế tạo nên những bức tượng ngày một lớn hơn. 


Diamond thinks they laid the moai on wooden sledges, hauled over log rails, but that required both a lot of wood and a lot of people.

Diamond cho rằng họ đã đặt tượng lên các xe lăn gỗ được kéo trên đường ray, nhưng việc đó đòi hỏi rất nhiều gỗ lẫn nhân công.

 

To feed the people, even more land had to be cleared.

Để cung cấp đủ lương thực cho cư dân, nhiều đất đai thậm chí lại càng phải được phát quang thêm nữa.

 

When the wood was gone and civil war began, the islanders began toppling the moai.
Khi nguồn gỗ không còn và cuộc nội chiến bắt đầu, những cư dân trên đảo bắt đầu kéo đổ các bức tượng xuống.

 

By the nineteenth century none were standing.

Đến thế kỷ 19 chẳng còn bức tượng nào đứng nguyên cả.

 D

Archaeologists Terry Hunt of the University of Hawaii and Carl Lipo of California State University agree that Easter Island lost its lush forests and that it was an ‘ecological catastrophe' - but they believe the islanders themselves weren’t to blame.

Hai nhà khảo cổ học, Terry Hunt thuộc Đại học Hawaii và Carl Lipo thuộc Đại học Bang California, đều đồng ý rằng đảo Phục Sinh đã bị mất đi những khu rừng tươi tốt và đó là một "thảm hoạ sinh thái" - nhưng họ tin rằng bản thân những cư dân trên đảo không đáng bị đổ lỗi.

 

And the moai certainly weren’t.

Và chắc chắn càng không phải do các bức tượng moai.


Archaeological excavations indicate that the Rapanui went to heroic efforts to protect the resources of their wind-lashed, infertile fields.

Những cuộc khai quật khảo cổ cho thấy rằng người Rapanui đã nỗ lực hết sức để bảo vệ nguồn tài nguyên trong gió lốc hay những cánh đồng kiệt quệ.

 

They built thousands of circular stone windbreaks and gardened inside them, and used broken volcanic rocks to keep the soil moist. 

Họ đã tạo ra hàng nghìn đê chắn gió hình cung bằng đá rồi trồng trọt phía trong chúng, họ còn sử dụng đá núi lửa vỡ để giữ cho đất ẩm ướt.

 

In short, Hunt and Lipo argue, the prehistoric Rapanui were pioneers of sustainable farming.
Hunt và Lipo lập luận ngắn gọn rằng người Rapanui tiền sử chính là những người tiên phong trong hoạt động canh tác nông nghiệp bền vững.

 E

Hunt and Lipo contend that moai-building was an activity that helped keep the peace between islanders.

Hunt và Lipo cho rằng việc chế tạo các bức tượng moai là một hoạt động giúp giữ gìn hòa bình giữa các dân đảo.

 

They also believe that moving the moai required few people and no wood, because they were walked upright.

Họ cũng tin rằng việc di chuyển tượng đá chỉ đòi hỏi rất ít người mà không cần đến gỗ, bởi vì những bức tượng được kéo đi thẳng đứng.

 

On that issue, Hunt and Lipo say, archaeological evidence backs up Rapanui folklore.
Về vấn đề này, Hunt và Lipo nói rằng các bằng chứng khảo cổ cho thấy các truyền thuyết của người Rapanui là có thật.

 

Recent experiments indicate that as few as 18 people could, with three strong ropes and a bit of practice, easily manoeuvre a 1,000 kg moai replica a few hundred metres. 

Những thí nghiệm gần đây cho thấy chỉ cần 18 người dùng ba sợi dây thừng luyện tập một chút là có thể dễ dàng điều khiển một bản sao của một bức tượng moai nặng 1,000 kg đi được vài trăm mét.

 

The figures’ fat bellies tilted them forward, and a D-shaped base allowed handlers to roll and rock them side to side.

Phần bụng nhô ra trên các bức tượng khiến chúng nghiêng về phía trước, và một kết cấu hình chữ D cho phép người ta lăn và đẩy chúng từ bên này sang bên kia.


F

Moreover, Hunt and Lipo are convinced that the settlers were not wholly responsible for the loss of the island’s trees.

Hơn nữa, Hunt và Lipo tin rằng những cư dân không phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về sự biến mất của cây cối trên đảo.

 

Archaeological finds of nuts from the extinct Easter Island palm show tiny grooves, made by the teeth of Polynesian rats.

Các khảo cổ học tìm thấy trên hạt của giống cọ đã tuyệt chủng trên đảo Phục Sinh có những rãnh nhỏ xíu gây nên bởi răng của loài chuột Polynesia.

 

The rats arrived along with the settlers, and in just a few years, Hunt and Lipo calculate, they would have overrun the island.

Những con chuột theo dân di cư đến đây, Hunt và Lipo tính toán thì chỉ cần vài năm là chúng đã tràn ngập hòn đảo rồi.

 

They would have prevented the reseeding of the slow-growing palm trees and thereby doomed Rapa Nui’s forest, even without the settlers’ campaign of deforestation.
Chúng đã cản trở tiến trình trồng lại những cây cọ phát triển chậm và theo đó phá hủy rừng trên đảo Phục Sinh mà thậm chí chẳng cần chờ dân di cư phá rừng.

 

No doubt the rats ate birds’ eggs too.

Chẳng nghi ngờ gì về việc loài chuột còn ăn cả trứng chim chóc nữa.

 
G

Hunt and Lipo also see no evidence that Rapanui civilisation collapsed when the palm forest did.

Hunt và Lipo cũng không tìm thấy bằng chứng chứng minh nền văn minh của người Rapanui sụp đổ khi rừng cọ biến mất.

 

They think its population grew rapidly and then remained more or less stable until the arrival of the Europeans, who introduced deadly diseases to which islanders had no immunity.

Họ cho rằng dân số trên đảo tăng nhanh và vẫn giữ ở mức ổn định cho đến cuộc đổ bộ của những người châu Âu, những người đã đem đến những bệnh dịch chết người mà cư dân đảo không hề miễn dịch với chúng.

 

Then in the nineteenth century slave traders decimated the population, which shrivelled to 111 people by 1877.

Sau đó vào thế kỉ XIX, bọn lái buôn nô lệ khiến cho dân số bị sụt giảm nghiêm trọng, chỉ còn 111 người vào năm 1877.

  

Hunt and Lipo’s vision, therefore, is one of an island populated by peaceful and ingenious moai builders and careful stewards of the land, rather than by reckless destroyers ruining their own environment and society.

Vì vậy, điều mà Hunt và Lipo nhìn thấy là một hòn đảo được trú ngụ bởi những người chế tạo tượng moai khéo léo và hòa bình và những người chú ý quản lý đất đai, chứ không phải là những kẻ hủy diệt đầy liều lĩnh phá hoại môi trường và xã hội của chính mình.

 

‘Rather than a case of abject failure, Rapu Nui is an unlikely story of success’, they claim.
Họ khẳng định rằng ‘Đảo Phục Sinh đáng lẽ ra sẽ là một câu chuyện về sự thành công thay vì là một thất bại thảm hại’


Whichever is the case, there are surely some valuable lessons which the world at large can learn from the story of Rapa Nui.

Dù sao đi nữa, thế giới nói chung chắc chắn có thể học những bài học quý giá từ câu chuyện của đảo Phục Sinh.

Hướng dẫn SDL Trados

 

01. Hướng dẫn SDL Trados và MS Office




02. Tạo dự án và bắt đầu dịch trên SDL Trados 




03. Thành thạo thao tác dịch trên Trados




04. Chớp mắt làm quen với SDL Trados Studio




05. Tất cả những gì cần biết trong 1 dự án dịch trên SDL trados  




06. Thêm file cần dịch vào một dự án SDL Trados có sẵn




07. Tối ưu cửa sổ làm việc SDL Trados




08. các thao tác hay sử dụng trên sdl trados




09. Kiểm soát và sửa lỗi trên SDL Trados với bộ nhớ dịch




10. Xử lý câu dịch trùng lặp gần đúng trên SDL Trados




11. Xử lý thẻ tag trong SDL Trados - phần 1 2




12. xử lý thẻ tag trong SDL Trados   phần 2 2




13. Cập nhập và kiểm tra bộ nhớ dịch trên SDL Trados  




14. Hiệu đính bản dịch thật pro trên sdl trados  




15. Xử lý gói dự án khi nhận job dịch Trados 




16. Hiệu đính và dịch tài liệu từ SDL trados trên Mircrosoft Word  




17. Kiểm soát và giới hạn độ dài bản dịch trên sdl trados  




18. Cập nhập và chỉnh sửa bản dịch sau khi hiệu đính  




19. Dịch văn bản nhanh bằng Microsoft Word  




20. Bảo dưỡng bộ nhớ dịch trên SDL Trados  




21. Hướng dẫn sử dụng Multiterm desktop tạo Termbase cho Trados  




22. Hướng dẫn sử dụng Multiterm Desktop cập nhập thuật ngữ cho Termbase  




23. Hướng dẫn sử dụng Termbase trong SDL Trados  




24. Cách thêm thuật ngữ vào Termbase trong Trados  




25. Khắc phục lỗi không mở được file word trên SDL Trados  




26. Tại sao phải thuê phiên dịch tiếng myanmar tại nhà máy




27. Dịch tài liệu bằng google doc trong 1 nốt nhạc  




28. Format và ngắt trang ảo diệu trong MS Word    




29. Tạo mục lục tự động trong Microsoft Word  




30. Giới thiệu cattool miễn phí FreeTM  




Beyond the blue horizon: Bên chân trời xanh



Ancient voyagers who settled the far-flung islands of the Pacific Ocean.
Những nhà du hành bằng đường biển xa xưa đã định cư trên những hòn đảo xa xôi của Thái Bình Dương.

(1)

An important archaeological discovery on the island of Efate in the Pacific archipelago of Vanuatu has revealed traces of an ancient seafaring people, the distant ancestors of todays, Polynesians.
Một khám phá khảo cổ học quan trọng trên đảo Efate thuộc quần đảo Thái Bình Dương của vùng Vanuatu đã tiết lộ những dấu vết của một người đi biển cổ đại, những tổ tiên xa xôi của những người Polynesia ngày nay.

The site came to light only by chance.
Địa điểm này đã được khám phá một cách ngẫu nhiên.


An agricultural worker, digging in the grounds of a derelict plantation , scraped open a grave – the first of dozens in a burial ground some 3,000 years old.
Một công nhân nông nghiệp khi đang đào những khu đất trồng trọt bị bỏ hoang đã tìm thấy một ngôi mộ - chính là một trong hàng chục ngôi mộ đã được chôn cất vào khoảng 3,000 năm trước.

It is the oldest cemetery ever found in the Pacific islands, and it harbors the remains of an ancient people archaeologists call the Lapita.
Đây là nghĩa trang lâu đời nhất được tìm thấy ở các hòn đảo ở Thái Bình Dương và nó lưu giữ những di tích của một nhà khảo cổ học gọi là Lapita.

(2)

They were daring blue-water adventurers who used basic canoes to rove across the ocean.
Họ là những nhà thám hiểm nước xanh táo bạo sử dụng những chiếc xuồng cơ bản để đi vòng qua đại dương.

But they were not just explorers.
Nhưng họ không chỉ là những người thám hiểm.

They were also pioneers who carried with them everything they would need to build new lives – their livestock , taro seedlings and stone tools.
Họ cũng là những người tiên phong mang theo họ mọi thứ họ cần để xây dựng cuộc sống mới - vật nuôi, cây giống khoai môn và dụng cụ bằng đá.

Within the span of several centuries, the Lapita stretched the boundaries of their world from the jungle-clad volcanoes of Papua New Guinea to the loneliest coral outliers of Tonga.
Trong vòng vài thế kỷ, Lapita mở rộng ranh giới của họ từ những ngọn núi lửa ở rừng Papua New Guinea đến những điểm cực xa đơn lẻ của Tonga.

(3)

The Lapita left precious few clues about themselves, but Efate expands the volume of data available to researchers dramatically.
Lapita đã để lại vài manh mối quý giá về bản thân họ, nhưng Efate đã mở rộng lượng dữ liệu cho các nhà nghiên cứu một cách đáng kể.

The remains of 62 individuals have been uncovered so far, and archaeologists were also thrilled to find six complete Lapita pots.
Những di tích còn lại của 62 cá thể đã được khám phá cho đến nay, và các nhà khảo cổ học cũng rất vui mừng khi tìm thấy sáu chậu Lapita hoàn chỉnh.

Other items included a Lapita burial urn with modeled birds arranged on the rim as though peering down at the human remains sealed inside.
Các đồ dùng khác bao gồm một cái chôn lợp Lapita với những con chim mô hình sắp xếp trên rìa như thể nhìn xuống những dấu tích về con người được lưu lại bên trong.

‘It’s an important discovery,’ says Matthew Spriggs, professor of archaeology at the Australian National University and head of the international team digging up the site, ‘for it conclusively identifies the remains as Lapita.
Matthew Spriggs, giáo sư khảo cổ tại Đại học Quốc gia Australia, người đứng đầu nhóm nghiên cứu quốc tế cho biết: "Đây là một phát hiện quan trọng", nhằm mục đích chứng minh các dấu tích phát hiện được là Lapita.

(4)

DNA teased from these human remains may help answer one of the most puzzling questions in Pacific anthropology: did all Pacific islanders spring from one source or many?
DNA bắt nguồn từ những xác người này có thể giúp trả lời một trong những câu hỏi khó hiểu nhất trong nhân học Thái Bình Dương: liệu tất cả người dân đảo Thái Bình Dương đều có nguồn gốc từ một hay nhiều nguồn gốc?

Was there only one outward migration from a single point in Asia, or several from different points? ‘This represents the best opportunity we’ve had yet,’ says Spriggs, ‘to find out who the Lapita actually were, where they came from, and who their closest descendants are today.

Có phải chỉ có một luồng di cư ra nước ngoài từ một điểm duy nhất ở Châu Á hay một vài điểm khác nhau? Spriggs nói: "Đây là cơ hội tốt nhất mà chúng tôi đã có", Spriggs nói, "để tìm ra ai là Lapita, họ đến từ đâu, và ai là con cháu của họ ngày nay".

(5)

There is one stubborn question for which archaeology has yet to provide any answers: how did the Lapita accomplish the ancient equivalent of a moon landing, many times over? No-one has found one of their canoes or any rigging, which could reveal how the canoes were sailed.
Có một câu hỏi khó mà ngành khảo cổ học vẫn chưa đưa ra câu trả lời: Lapita đã đạt được sự tương đương về mặt trăng như thế nào và nếu có thì bao nhiều lần? Không ai tìm thấy một trong những chiếc xuồng của họ hoặc bất kỳ trang bị nào, điều này có thể tiết lộ rằng họ có thể đã di chuyển bằng thuyền.

Nor do the oral histories and traditions of later Polynesians offer any insights, for they turn into myths long before they reach as far back in time as the Lapita .

Các lịch sử và truyền thống của người Polynesia sau đó cũng không cung cấp những thông tin chi tiết, vì chúng đã trở thành những huyền thoại rất lâu trước khi chúng trở thành thời kì Lapita.

(6)

‘All we can say for certain is that the Lapita had canoes that were capable of ocean voyages, and they had the ability to sail them,’ says Geoff Irwin, a professor of archaeology at the University of Auckland.
Geoff Irwin, giáo sư khảo cổ tại Đại học Auckland cho biết: "Tất cả những gì chúng tôi có thể nói chắc chắn là người Lapita đã tạo ra thuyền có khả năng đi biển, và họ có khả năng sử dụng chúng.

Those sailing skills, he says, were developed and passed down over thousands of years by earlier mariners who worked their way through the archipelagoes of the western Pacific, making short crossings to nearby islands.
Những kỹ năng đi biển này đã được phát triển và truyền lại hàng ngàn năm bởi những người thủy quân trước đây, những người đã làm việc theo cách của họ thông qua các quần đảo phía tây Thái Bình Dương, thực hiện các chuyến đi ngắn đến những hòn đảo gần đó.

The real adventure didn’t begin, however, until their Lapita descendants sailed out of sight of land, with empty horizons on every side.
Tuy nhiên cuộc phiêu lưu thực sự đã không bắt đầu cho đến khi con cháu Lapita của họ đi thuyền ra khỏi tầm mắt của đất, với đường chân trời trống không ở mọi phía.

This must have been as difficult for them as landing on the moon is for us today.
Điều này chắc hẳn đã trở nên khó khăn đối với họ khi ngày nay chúng ta đã đặt chân lên mặt trăng.


Certainly it distinguished them from their ancestors, but what gave them the courage to launch out on such risky voyages?

Chắc chắn điều này đã phân biệt chúng với tổ tiên của họ, nhưng điều gì đã giúp họ can đảm để thực hiện những chuyến đi nguy hiểm như vậy?

(7)

The Lap it as thrust into the Pacific was eastward, against the prevailing trade winds, Irwin notes.

Irwin lưu ý rằng Lapita coi sự can đảm như một lực đẩy tiến về phía Đông Thái Bình Dương, chống lại những cơn gió mạnh.

Those nagging headwinds, he argues, may have been the key to their success.
Những lập luận trên, ông cho rằng, có thể là chìa khóa thành công của họ.

‘They could sail out for days into the unknown and assess the area, secure in the knowledge that if they didn’t find anything, they could turn about and catch a swift ride back on the trade winds.
"Họ có thể đi thuyền nhiều ngày vào những khu vực không rõ ràng  và đánh giá khu vực chúng, bảo đảm rằng nếu họ không tìm thấy gì thì họ có thể quay lại và bắt kịp những cơn gió mạnh.

This is what would have made the whole thing work .
Đó là điều họ làm mọi thứ.


’Once out there, skilled seafarers would have detected abundant leads to follow to land: seabirds, coconuts and twigs carried out to sea by the tides, and the afternoon pile-up of clouds on the horizon which often indicates an island in the distance.
Một khi đã có trên biển, những thuyền viên có kỹ năng đã có thể phát hiện ra những con đường dẫn đến những vùng đất: những con diều biển, dừa và những cành cây được thủy triều đưa ra biển, và những đám mây tràn vào buổi chiều trên đường chân trời, nơi thường chỉ ra một hòn đảo ở xa.

(8)

For returning explorers, successful or not, the geography of their own archipelagoes would have provided a safety net .
Đối với các nhà thám hiểm trở lại, dù thành công hay không, địa lý của quần đảo đã cung cấp cho họ một mạng lưới an toàn.

Without this to go by, overshooting their home ports, getting lost and sailing off into eternity would have been all too easy.
Nếu không có điều này xảy ra, đối với họ, vượt qua các cảng gia đình, đi lạc và đi thuyền đều trở nên dễ dàng.

Vanuatu, for example, stretches more than 500 miles in a northwest-southeast trend, its scores of intervisible islands forming a backstop for mariners riding the trade winds home.
Vanuatu, ví dụ, trải dài hơn 500 dặm trong theo hướng tây bắc-đông nam, phạm vi của các hòn đảo đã tạo thành một hỗ trợ đối với thủy thủ cưỡi gió mạnh trở về nhà.

(9)

All this presupposes one essential detail, says Atholl Anderson, professor of prehistory at the Australian National University: the Lapita had mastered the advanced art of sailing against the wind.
Theo Atholl Anderson, giáo sư tiền sử tại Đại học Quốc gia Australia, điều này đã chứng tỏ một chi tiết cần thiết rằng Lapita đã làm chủ được nghệ thuật tiên tiến trong việc chống lại với gió.

‘And there’s no proof they could do any such thing ,’ Anderson says.
"Và không có bằng chứng nào chứng tỏ họ có thể làm được điều đó", Anderson nói.

‘There has been this assumption they did, and people have built canoes to re-create those early voyages based on that assumption.
"Đã có giả định này rằng con người đã chế tạo  những chiếc xuồng để tái tạo những hành trình sớm dựa trên giả thuyết đó.

But nobody has any idea what their canoes looked like or how they were rigged.
Nhưng không ai có ý tưởng về những chiếc xuồng của họ trông như thế nào hoặc làm thế nào họ đã được lắp ráp được.

(10)

Rather than give all the credit to human skill, Anderson invokes the winds of chance.
Thay vì ca ngợi kỹ năng của con người, Anderson kêu gọi sức mạnh của cơ hội.

El Nino, the same climate disruption that affects the Pacific today, may have helped scatter the Lapita , Anderson suggests.
El Nino, cùng với sự gián đoạn về khí hậu ảnh hưởng đến Thái Bình Dương ngày nay, có thể đã giúp phân tán Lapita, Anderson gợi ý.

He points out that climate data obtained from slow-growing corals around the Pacific indicate a series of unusually frequent El Ninos around the time of the Lapita expansion.

Ông chỉ ra rằng dữ liệu khí hậu thu được từ san hô phát triển chậm xung quanh Thái Bình Dương cho thấy một loạt El Ninos thường xuyên xảy ra bất thường trong khoảng thời gian Lapita mở rộng sự cư trú.

By reversing the regular east-to-west flow of the trade winds for weeks at a time, these super El Ninos might have taken the Lapita on long unplanned voyages.
Bằng cách đảo ngược luồng gió mạnh theo hướng Đông-Tây kéo dài hàng tuần, những siêu El Ninos có thể đã giúp Lapita thực hiện những chuyến đi dài không có kế hoạch.

(11)

However they did it, the Lapita spread themselves a third of the way across the Pacific, then called it quits for reasons known only to them.
Tuy nhiên, họ đã làm được điều đó, Lapita đã mở rộng 1/3 địa bàn qua Thái Bình Dương, sau đó họ đã từ bỏ vì một vài lí do mà chỉ có họ mới biết.

Ahead lay the vast emptiness of the central Pacific and perhaps they were too thinly stretched to venture farther.
Ở phía trước là vùng rộng lớn của trung tâm Thái Bình Dương và có lẽ họ đã không đủ can đảm để đi xa hơn.

They probably never numbered more than a few thousand in total, and in their rapid migration eastward they encountered hundreds of islands – more than 300 in Fiji alone.
Họ có lẽ chưa bao giờ đếm được tổng cộng hơn một nghìn hòn đảo, và khi di chuyển nhanh về phía đông, họ gặp hàng trăm hòn đảo – chỉ riêng vùng Fiji đã có hơn 300.

NGỌC THU

ARTCANDY SHOP NGỌC THU -     Trên   bước   đường   THÀNH   CÔNG , không   có   dấu   chân   của   những   kẻ   LƯỜI   BIẾNG . ...