Tình yêu bắt đầu từ trong nhà – Mẹ Têrêsa



Mẹ Teresa luôn là một hình tượng đặc biệt trong lòng những người biết đến bà. Bà đứng vào hàng ngũ các vĩ nhân không phải vì các chiến công hay tài năng đặc biệt, mà là sự bền bỉ, tận tuỵ hi sinh trong hơn 45 năm chăm sóc người nghèo, bệnh tật, trẻ mồ côi, người hấp hối.

Chúng ta hãy cùng nhau đọc bài diễn văn tràn ngập tình yêu thương của bà tại lễ trao giải Nobel Hoà Bình.

Nobel Lecture 11 December, 1979
Diễn văn Nobel
11 tháng 12, 1979

As we have gathered here together to thank God for the Nobel Peace Prize I think it will be beautiful that we pray the prayer of St. Francis of Assisi which always surprises me very much – we pray this prayer every day after Holy Communion, because it is very fitting for each one of us, and I always wonder that 4-500 years ago as St. Francis of Assisi composed this prayer that they had the same difficulties that we have today, as we compose this prayer that fits very nicely for us also. I think some of you already have got it – so we will pray together.
Trong khi chúng ta tập hợp với nhau ở đây để cảm ơn Chúa về giải Nobel Hòa bình, tôi nghĩ thật là tuyệt vời để chúng ta cầu nguyện lời nguyện của Thánh Phanxicô Assisi, lời nguyện luôn làm tôi rất ngạc nhiên – chúng tôi cầu nguyện lời này mỗi ngày sau khi Rước Lễ, vì rất hợp cho mỗi người chúng tôi, và tôi luôn tự hỏi rằng 4-500 năm trước đây, khi Thánh Phanxicô Assisi lập lời cầu nguyện này người ta có những khó khăn như chúng ta có ngày hôm nay, như chúng ta lập lời cầu nguyện này cũng rất phù hợp với chúng ta. Tôi nghĩ một số bạn đã có bài nguyện rồi – vậy chúng ta sẽ cùng nhau cầu nguyện.

Let us thank God for the opportunity that we all have together today, for this gift of peace that reminds us that we have been created to live that peace, and Jesus became man to bring that good news to the poor. He being God became man in all things like us except sin, and he proclaimed very clearly that he had come to give the good news. The news was peace to all of good will and this is something that we all want – the peace of heart – and God loved the world so much that he gave his son – it was a giving – it is as much as if to say it hurt God to give, because he loved the world so much that he gave his son, and he gave him to Virgin Mary, and what did she do with him?
Chúng ta hãy cảm tạ ơn Chúa cho cơ hội mà tất cả chúng ta đã có cùng nhau hôm nay, cho món quà của hòa bình để nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta đã được tạo ra để sống hòa bình đó, và Chúa Giêsu đã trở thành người để đem tin mừng đến cho người nghèo. Ngài là Đức Chúa Trời đã trở thành con người với tất cả những gì giống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, và Ngài tuyên bố rất rõ ràng rằng Ngài đã đến để ban tin mừng. Tin mừng đó là hòa bình cho mọi người thiện tâm và đây là điều mà tất cả chúng ta đều muốn – sự bình an của tâm hồn – và Chúa yêu thương thế gian đến nỗi Ngài đã ban con trai của Ngài – là một sự hiến dâng – nhiều như thể nói là Chúa rất đau lòng để cho, vì Ngài yêu thương thế gian nhiều đến Ngài nỗi đã ban con trai của Ngài, và Ngài trao con cho Đức Mẹ Maria Đồng trinh, và Đức Mẹ đã làm gì với đứa con đó?

As soon as he came in her life – immediately she went in haste to give that good news, and as she came into the house of her cousin, the child – the unborn child – the child in the womb of Elizabeth, leapt with joy. He was that little unborn child, was the first messenger of peace. He recognised the Prince of Peace, he recognised that Christ has come to bring the good news for you and for me. And as if that was not enough – it was not enough to become a man – he died on the cross to show that greater love, and he died for you and for me and for that leper and for that man dying of hunger and that naked person lying in the street not only of Calcutta, but of Africa, and New York, and London, and Oslo – and insisted that we love one another as he loves each one of us. And we read that in the Gospel very clearly – love as I have loved you – as I love you – as the Father has loved me, I love you – and the harder the Father loved him, he gave him to us, and how much we love one another, we, too, must give each other until it hurts. It is not enough for us to say: I love God, but I do not love my neighbour. St. John says you are a liar if you say you love God and you don’t love your neighbour. How can you love God whom you do not see, if you do not love your neighbour whom you see, whom you touch, with whom you live. And so this is very important for us to realise that love, to be true, has to hurt. It hurt Jesus to love us, it hurt him. And to make sure we remember his great love he made himself the bread of life to satisfy our hunger for his love. Our hunger for God, because we have been created for that love. We have been created in his image. We have been created to love and be loved, and then he has become man to make it possible for us to love as he loved us. He makes himself the hungry one – the naked one – the homeless one – the sick one – the one in prison – the lonely one – the unwanted one – and he says: You did it to me. Hungry for our love, and this is the hunger of our poor people. This is the hunger that you and I must find, it may be in our own home.
Ngay sau khi đứa con đến với cuộc đời của bà – ngay lập tức bà đã ban bố tin vui đó, và khi bà vào ngôi nhà của người em họ, đứa bé – đứa bé chưa sinh ra – đứa bé trong bụng mẹ của Elizabeth, nhảy nhót với niềm vui. Đó là đứa bé chưa sinh ra, là sứ giả đầu tiên của hòa bình. Đứa bé đã nhận là Hoàng tử của Hòa bình, Ngài đã nhận ra rằng Đấng Cứu Thế đã đến để mang lại tin vui cho bạn và cho tôi. Và như thể đó là không đủ – trở thành một con người cũng chưa đủ – Ngài đã chết trên thánh giá để cho thấy tình yêu vĩ đại hơn, và Ngài đã chết cho bạn và cho tôi và cho người phong cùi đó và cho người chết vì đói đó và người trần truồng nằm trên đường phố đó, không những chỉ ở Calcutta, nhưng ở châu Phi, và New York và London, Oslo – và đòi hỏi rằng chúng ta yêu nhau như Ngài yêu mỗi người chúng ta. Và chúng ta đọc điều đó trong Phúc Âm g rất rõ ràng – yêu như Ta đã yêu con – như Ta yêu con – như Chúa Cha đã yêu Ta, Ta yêu con – và Chúa Cha yêu Ngài hơn bao nhiêu, Chúa Cha đã cống hiến Ngài cho chúng ta, và chúng ta yêu nhau bao nhiêu, chúng ta cũng phải yêu nhau cho đến khi đau đớn. Không đủ để chúng ta nói: Tôi yêu Chúa, nhưng tôi không yêu người láng giềng của tôi. Thánh John nói rằng bạn là một kẻ nói dối nếu bạn nói bạn yêu Chúa mà bạn không yêu người láng giềng của bạn. Làm sao mà bạn có thể yêu Chúa người mà bạn không nhìn thấy, nếu bạn không yêu người láng giềng người mà bạn nhìn thấy, người bạn tiếp xúc, người mà bạn cùng sống. Và vì vậy rất quan trọng đối với chúng ta để nhận ra rằng tình yêu, để thật sự có, phải là đau đớn. Giêsu chịu yêu chúng ta, điều đó làm Ngài đau đớn. Và để đảm bảo rằng chúng ta nhớ đến tình yêu tuyệt vời của Ngài, Ngài biến thành thức ăn của đời sống để thỏa mãn cơn đói của chúng ta đối với tình yêu của Ngài. Chúng ta đói khát Chúa, vì chúng ta được tạo ra cho tình yêu đó. Chúng ta được tạo ra trong hình ảnh của Chúa. Chúng ta được tạo ra để yêu và để được yêu, và Chúa đã trở thành người để giúp chúng ta có thể yêu như Ngài đã yêu chúng ta. Ngài biến thành người đói – người trần truồng – người không nhà – người bệnh hoạn – người trong tù – người cô đơn – người bị từ chối – và Ngài nói: Con đã chăm sóc ta. Đói cho tình yêu của chúng ta, và đây là sự đói khát của con người chúng ta. Đây là sự đói khát mà bạn và tôi phải tìm kiếm, nó có thể ngay trong nhà của chúng ta.

I never forget an opportunity I had in visiting a home where they had all these old parents of sons and daughters who had just put them in an institution and forgotten maybe. And I went there, and I saw in that home they had everything, beautiful things, but everybody was looking towards the door. And I did not see a single one with their smile on their face. And I turned to the Sister and I asked: How is that? How is it that the people they have everything here, why are they all looking towards the door, why are they not smiling? I am so used to see the smile on our people, even the dying one smile, and she said: This is nearly every day, they are expecting, they are hoping that a son or daughter will come to visit them. They are hurt because they are forgotten, and see – this is where love comes. That poverty comes right there in our own home, even neglect to love. Maybe in our own family we have somebody who is feeling lonely, who is feeling sick, who is feeling worried, and these are difficult days for everybody. Are we there, are we there to receive them, is the mother there to receive the child?
Tôi không bao giờ quên một dịp tôi đã viếng thăm một nhà nơi nhiều cha mẹ già của những người con trai và con gái bị con cái đưa vào viện dưỡng lão và có thể là bị bỏ quên. Và tôi đến đó, và tôi thấy trong nhà đó họ có tất cả mọi thứ, những thứ xinh đẹp, nhưng mọi người đều nhìn ra phía cánh cửa. Và tôi không thấy một người nào với nụ cười trên khuôn mặt của họ. Và tôi quay sang Chị và tôi hỏi: Làm sao thế? Sao mà người có tất cả ở đây, tại sao tất cả đều trông ra phía cánh cửa, tại sao họ không cười? Tôi quen nhìn thấy nụ cười của mọi người, thậm chí người sắp chết cũng cười, và Chị nói: Điều này hầu như mỗi ngày, họ đang mong đợi, họ đang hy vọng rằng những người con trai hay con gái sẽ đến thăm họ. Họ bị tổn thương bởi vì họ đang bị lãng quên, và nhìn xem – đây là nơi mà tình yêu đến. Sự nghèo đói đó đến ngay chính trong nhà của chúng ta, thậm chí bỏ bê tình yêu. Có lẽ ngay trong gia đình của chúng ta, chúng ta có người đang cảm thấy cô đơn, cảm thấy bệnh hoạn, cảm thấy lo lắng, và đây là những ngày khó khăn cho tất cả mọi người. Chúng ta có ở đó không, chúng ta có ở đó để đón nhận họ không có người mẹ nào hiện diện để nhận con mình?

I was surprised in the West to see so many young boys and girls given into drugs, and I tried to find out why – why is it like that, and the answer was: Because there is no one in the family to receive them. Father and mother are so busy they have no time. Young parents are in some institution and the child takes back to the street and gets involved in something. We are talking of peace. These are things that break peace, but I feel the greatest destroyer of peace today is abortion, because it is a direct war, a direct killing – direct murder by the mother herself. And we read in the Scripture, for God says very clearly: Even if a mother could forget her child – I will not forget you – I have carved you in the palm of my hand. We are carved in the palm of His hand, so close to Him that unborn child has been carved in the hand of God. And that is what strikes me most, the beginning of that sentence, that even if a mother could forget something impossible – but even if she could forget – I will not forget you. And today the greatest means – the greatest destroyer of peace is abortion. And we who are standing here – our parents wanted us. We would not be here if our parents would do that to us. Our children, we want them, we love them, but what of the millions. Many people are very, very concerned with the children in India, with the children in Africa where quite a number die, maybe of malnutrition, of hunger and so on, but millions are dying deliberately by the will of the mother. And this is what is the greatest destroyer of peace today. Because if a mother can kill her own child – what is left for me to kill you and you kill me – there is nothing between. And this I appeal in India, I appeal everywhere: Let us bring the child back, and this year being the child’s year: What have we done for the child? At the beginning of the year I told, I spoke everywhere and I said: Let us make this year that we make every single child born, and unborn, wanted. And today is the end of the year, have we really made the children wanted? I will give you something terrifying. We are fighting abortion by adoption, we have saved thousands of lives, we have sent words to all the clinics, to the hospitals, police stations – please don’t destroy the child, we will take the child. So every hour of the day and night it is always somebody, we have quite a number of unwedded mothers – tell them come, we will take care of you, we will take the child from you, and we will get a home for the child. And we have a tremendous demand from families who have no children, that is the blessing of God for us. And also, we are doing another thing which is very beautiful – we are teaching our beggars, our leprosy patients, our slum dwellers, our people of the street, natural family planning.
Tôi ngạc nhiên khi thấy rất nhiều thanh niên và thiếu nữ phương Tây bị nghiện thuốc phiện, và tôi cố gắng để tìm hiểu tại sao – tại sao là như thế, và câu trả lời là: Bởi vì không có ai trong gia đình để đón nhận chúng. Cha và mẹ quá bận rộn họ không có thời gian. Các bậc cha mẹ trẻ đang ở tại một cơ sở nào đó và những đứa trẻ quay trở ra đường phố và vướng vào cái gì đó. Chúng ta đang nói về hòa bình. Đây là những điều phá hoại hòa bình, nhưng tôi cảm thấy điều tàn phá hoà bình vĩ đại nhất ngày nay là phá thai, bởi vì nó là một cuộc chiến tranh trực tiếp, cuộc giết hại trực tiếp – cuộc sát hại trực tiếp bởi chính người mẹ. Và chúng ta đọc trong Kinh Thánh, vì Chúa nói rất rõ ràng: Ngay cả khi một người mẹ có thể quên con mình – Ta sẽ không quên con – Ta đã khắc con trên lòng bàn tay của Ta. Chúng ta đã được khắc trong bàn tay của Ngài, thân mật với Ngài đến mức thai nhi đã được khắc trong bàn tay của ngài. Và đó là điều đập vào tôi mạnh nhất, lời bắt đầu của câu đó, thậm chí nếu một người mẹ có thể quên một điều không thể quên – nhưng ngay cả khi cô ta có thể quên – Ta sẽ không quên con. Và ngày nay điều tàn ác lớn nhất – điều tàn phá hòa bình lớn nhất là phá thai. Và chúng ta những người đang đứng ở đây – cha mẹ của chúng ta đã muốn có chúng ta. Chúng ta đã không ở đây nếu cha mẹ của chúng ta đã làm điều đó với chúng ta. Con cái của chúng ta, chúng ta muốn chúng, chúng ta yêu chúng, nhưng với hàng triệu người khác thì sao? Nhiều người rất, rất quan tâm với trẻ em ở Ấn Độ, với trẻ em ở châu Phi nơi mà có khá nhiều số chết, có thể vì suy dinh dưỡng, vì đói khát và vì nhiều thứ, nhưng hàng triệu chết bởi ý muốn cố y’ của người mẹ. Và điều này ngày nay là điều tàn phá hòa bình lớn nhất. Vì nếu người mẹ có thể giết con của chính mình – có cái gì còn lại cho tôi để giết bạn và bạn giết tôi – không còn điều gì nữa giữa hai ta. Và điều này tôi kêu gọi ở Ấn Độ, kêu gọi ở khắp mọi nơi: Hãy mang trẻ thơ trở lại, và năm nay là năm của trẻ thơ: chúng ta đã làm được gì cho trẻ thơ? Vào đầu năm tôi đã bảo, tôi đã diễn thuyết ở khắp mọi nơi và tôi đã nói: Năm nay hãy làm cho mọi trẻ thơ đã sinh, và chưa sinh, được bố mẹ muốn sinh. Và hôm nay là cuối năm, chúng ta đã thực sự làm cho các trẻ thơ được bố mẹ muốn sinh chưa? Tôi sẽ cho các bạn biết vài điều đáng sợ. Chúng tôi đang đấu tranh phá thai bằng cách nhận con nuôi, chúng tôi đã bảo vệ được hàng ngàn emm, chúng tôi đã nhắn lời đến tất cả các phòng khám, bệnh viện, trạm cảnh sát – xin đừng hủy hoại trẻ thơ, chúng tôi sẽ nhận đứa trẻ. Vì vậy, mỗi giờ trong ngày hay đêm luôn luôn là một ai đó, chúng tôi có khá nhiều bà mẹ chưa cưới – kêu họ đến, chúng tôi sẽ chăm sóc bạn, chúng tôi sẽ nhận con của bạn, và chúng tôi sẽ cho trẻ thơ một mái ấm. Và chúng ta có nhu cầu lớn từ những gia đình không có con, đó là phước lành của Chúa đối với chúng ta. Và nữa, chúng tôi cũng đang làm một điều rất đẹp – chúng tôi đang dạy những người ăn xin, bệnh nhân phong cùi, cư dân khu ổ chuột, người không nhà, kế hoạch hóa gia đình theo cách tự nhiên.

And in Calcutta alone in six years – it is all in Calcutta – we have had 61,273 babies less from the families who would have had, but because they practise this natural way of abstaining, of self-control, out of love for each other. We teach them the temperature meter which is very beautiful, very simple, and our poor people understand. And you know what they have told me? Our family is healthy, our family is united, and we can have a baby whenever we want. So clear – those people in the street, those beggars – and I think that if our people can do like that how much more you and all the others who can know the ways and means without destroying the life that God has created in us.
Và riêng vùng Calcutta trong sáu năm – tất cả đều ở Calcutta, chúng tôi đã giảm được 61.273 trẻ sơ sinh trong các gia đình đáng lẽ phải có con, nhưng vì họ thực hành kiêng cữ bằng cách tự nhiên, tự kiểm soát, qua tình yêu cho nhau. Chúng tôi dạy cho họ cách đo nhiệt độ rất đẹp, rất đơn giản, và những người nghèo của chúng tôi hiểu. Và bạn biết những gì họ đã nói với tôi không? Gia đình chúng tôi được khỏe mạnh, gia đình chúng tôi đoàn kết, và chúng tôi có thể có con bất cứ khi nào chúng tôi muốn. Quá rõ ràng – những người lang thang đường phố, những người ăn xin – và tôi nghĩ rằng nếu người của chúng tôi có thể làm như thế thì bạn và tất cả người khác có thể làm nhiều hơn thế nào vì các bạn biết được cách thức và phương tiện (kế hoạc hóa gia đình) mà không hủy hoại sự sống Chúa đã tạo ra trong chúng ta.

The poor people are very great people. They can teach us so many beautiful things. The other day one of them came to thank and said: You people who have vowed chastity you are the best people to teach us family planning. Because it is nothing more than self-control out of love for each other. And I think they said a beautiful sentence. And these are people who maybe have nothing to eat, maybe they have not a home where to live, but they are great people. The poor are very wonderful people. One evening we went out and we picked up four people from the street. And one of them was in a most terrible condition – and I told the Sisters: You take care of the other three, I take of this one that looked worse. So I did for her all that my love can do. I put her in bed, and there was such a beautiful smile on her face. She took hold of my hand, as she said one word only: Thank you – and she died.
Những người dân nghèo là những người rất tuyệt vời. Họ có thể dạy chúng ta nhiều điều rất đẹp. Một ngày nọ một trong số họ đến để cảm ơn và nói: Các soeurs, những người đã thể nguyện đức tinh khiết là những người tốt nhất để dạy chúng tôi kế hoạch hóa gia đình. Bởi vì nó không gì ngoài ra sự tự kiểm soát tình yêu dành cho nhau. Và tôi nghĩ rằng họ đã nói một câu tuyệt đẹp. Và đây là những người có thể không có gì để ăn, không có nhà để ở, nhưng họ là những người tuyệt vời. Người nghèo là những người rất tuyệt vời. Một buổi tối, chúng tôi ra ngoài và gặp bốn người trên đường phố. Và một trong số đó đang trong tình trạng khủng khiếp nhất – và tôi nói với các soeurs: Chị chăm sóc ba người kia, tôi chăm người này trông tồi tệ nhất. Và, tôi đã làm tất cả những gì tình yêu của tôi có thể. Tôi đặt cô ấy trên giường, và một nụ cười nở rất đẹp trên khuôn mặt của cô. Cô ta nắm lấy tay tôi, nói một lời duy nhất: Cảm ơn – và cô đã chết.

I could not help but examine my conscience before her, and I asked what would I say if I was in her place. And my answer was very simple. I would have tried to draw a little attention to myself, I would have said I am hungry, that I am dying, I am cold, I am in pain, or something, but she gave me much more – she gave me her grateful love. And she died with a smile on her face. As that man whom we picked up from the drain, half eaten with worms, and we brought him to the home. I have lived like an animal in the street, but I am going to die like an angel, loved and cared for. And it was so wonderful to see the greatness of that man who could speak like that, who could die like that without blaming anybody, without cursing anybody, without comparing anything. Like an angel – this is the greatness of our people. And that is why we believe what Jesus had said: I was hungry – I was naked – I was homeless – I was unwanted, unloved, uncared for – and you did it to me.
Tôi buộc phải xét lương tâm của tôi trước cô ấy, và tôi hỏi tôi sẽ nói gì nếu tôi rơi vào hoàn cảnh của cô ta. Và câu trả lời của tôi là rất đơn giản. Tôi sẽ cố gắng tạo một ít sự chú ý cho bản thân, tôi sẽ nói tôi đói, rằng tôi đang chết, tôi lạnh, tôi đau đớn, hoặc gì đó, nhưng cô ấy đã cho tôi nhiều hơn – cô ấy đã cho tôi tình yêu của sự biết ơn. Và cô ấy đã chết với một nụ cười trên khuôn mặt. Khi một người mà chúng tôi đã gặp từ ống cống, bị dòi ăn nửa người, và chúng tôi đưa người đó về nhà. Tôi đã sống như một con vật trên đường phố, nhưng tôi sẽ chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc. Và rất tuyệt vời để nhìn thấy sự vĩ đại của một người có thể nói như thế, người có thể chết như thế mà không đổ lỗi cho bất cứ ai, mà không nguyền rủa bất cứ ai, mà không so sánh bất cứ điều gì. Như một thiên thần – điều này là sự vĩ đại của con người chúng ta. Và đó là lý do vì sao chúng ta tin tưởng những gì Giêsu đã nói: Ta đói khát – Ta trần truồng – ta không nhà – Ta không ai muốn, không được yêu, không được chăm sóc – và con đã chăm sóc ta.

I believe that we are not real social workers. We may be doing social work in the eyes of the people, but we are really contemplatives in the heart of the world. For we are touching the Body of Christ 24 hours. We have 24 hours in this presence, and so you and I. You too try to bring that presence of God in your family, for the family that prays together stays together. And I think that we in our family don’t need bombs and guns, to destroy to bring peace – just get together, love one another, bring that peace, that joy, that strength of presence of each other in the home. And we will be able to overcome all the evil that is in the world.
Tôi tin rằng chúng tôi không thực sự là những người cán bộ xã hội. Có thể là chúng tôi làm công tác xã hội trong mắt của mọi người, nhưng chúng tôi thực sự là những người mặc niệm trong trái tim của thế giới. Vì chúng tôi tiếp xúc với Thân Thể Chúa 24 giờ. Chúng ta có 24 giờ trong sự hiện diện này, và bạn và tôi cũng vậy. Bạn cũng cố gắng mang sự hiện diện của Chúa vào gia đình bạn, cho gia đình cầu nguyện cùng nhau sống với nhau. Và tôi nghĩ rằng chúng ta trong gia đình không cần bom và súng, phá hủy để mang lại hòa bình – chỉ cần đến với nhau, yêu thương nhau, mang lại sự bình an, niềm vui , sức mạnh của sự hiện diện với nhau trong nhà. Và chúng ta có thể vượt qua tất cả các điều ác trên thế giới.

There is so much suffering, so much hatred, so much misery, and we with our prayer, with our sacrifice are beginning at home. Love begins at home, and it is not how much we do, but how much love we put in the action that we do. It is to God Almighty – how much we do it does not matter, because He is infinite, but how much love we put in that action. How much we do to Him in the person that we are serving.
Có quá nhiều đau khổ, quá nhiều hận thù, quá nhiều khốn khổ, và chúng ta, với lời cầu nguyện, với sự hy sinh, bắt đầu từ trong nhà. Tình yêu bắt đầu trong nhà, và không phải là chúng ta yêu bao nhiêu, nhưng chúng ta chuyển bao nhiêu tình yêu ra hành động trong các điều chúng ta làm . Đó là dâng hiến cho Chúa Toàn Năng – chúng ta làm bao nhiêu không quan trọng, bởi vì Ngài là vô hạn, nhưng bao nhiêu tình yêu chúng ta đặt vào trong hành động đó. Chúng ta làm cho Chúa bao nhiêu qua những người chúng ta đang phục vu.

Some time ago in Calcutta we had great difficulty in getting sugar, and I don’t know how the word got around to the children, and a little boy of four years old, Hindu boy, went home and told his parents: I will not eat sugar for three days, I will give my sugar to Mother Teresa for her children. After three days his father and mother brought him to our home. I had never met them before, and this little one could scarcely pronounce my name, but he knew exactly what he had come to do. He knew that he wanted to share his love.
Trong thời gian trước đây ở Calcutta, chúng tôi gặp khó khăn trong việc mua đường, và tôi không biết tiếng đồn đến với những trẻ em cách nào, và một cậu bé bốn tuổi, cậu bé Ấn Độ giáo, về nhà và nói với cha mẹ của mình: Con sẽ không ăn đường trong ba ngày, con sẽ cho số đường của Con cho Mẹ Teresa cho trẻ em của bà. Sau ba ngày, cha và mẹ của cậu bé đã đưa cậu đến nhà chúng tôi. Tôi chưa bao giờ gặp họ trước đây, và cậu bé này khó rành cả phát âm tên của tôi, nhưng cậu biết chính xác caajyu đã đến để làm gì. Cậu biết rằng cậu muốn chia sẻ tình yêu của mình.

And this is why I have received such a lot of love from you all. From the time that I have come here I have simply been surrounded with love, and with real, real understanding love. It could feel as if everyone in India, everyone in Africa is somebody very special to you. And I felt quite at home I was telling Sister today. I feel in the Convent with the Sisters as if I am in Calcutta with my own Sisters. So completely at home here, right here.
Và đó là tại sao tôi đã nhận được rất nhiều tình yêu từ tất cả các bạn. Từ lúc tôi đến đây, tôi đơn giản là được bao quanh với tình yêu, và với tình yêu hiểu biết thực sự, thực sự. Có thể cảm nhận như thể mọi người ở Ấn Độ, mọi người ở châu Phi là người rất đặc biệt đối với bạn. Và tôi cảm thấy là nhà, tôi đã nói với Chị Em ngày hôm nay. Tôi cảm thấy trong Tu Viện với Chị Em như thể tôi đang ở Calcutta với Chị Em của riêng tôi. Rất trọn vẹn là nhà ở đây, ngay tại nơi đây.

And so here I am talking with you – I want you to find the poor here, right in your own home first. And begin love there. Be that good news to your own people. And find out about your next-door neighbour – do you know who they are? I had the most extraordinary experience with a Hindu family who had eight children. A gentleman came to our house and said: Mother Teresa, there is a family with eight children, they had not eaten for so long – do something. So I took some rice and I went there immediately. And I saw the children – their eyes shinning with hunger – I don’t know if you have ever seen hunger. But I have seen it very often. And she took the rice, she divided the rice, and she went out. When she came back I asked her – where did you go, what did you do? And she gave me a very simple answer: They are hungry also. What struck me most was that she knew – and who are they, a Muslim family – and she knew. I didn’t bring more rice that evening because I wanted them to enjoy the joy of sharing. But there were those children, radiating joy, sharing the joy with their mother because she had the love to give. And you see this is where love begins – at home. And I want you – and I am very grateful for what I have received. It has been a tremendous experience and I go back to India – I will be back by next week, the 15th I hope – and I will be able to bring your love.
Và như tôi đang nói với các bạn ở đây – Tôi muốn các bạn tìm thấy những người nghèo ở đây, ngay trong nhà của chính bạn trước. Và bắt đầu tình yêu ở đó. Hãy là tin mừng cho người của bạn. Và tìm hiểu về người hàng xóm cạnh nhà bạn – bạn có biết họ là ai? Tôi có kinh nghiệm đặc biệt nhất với một gia đình Ấn Giáo với tám người con. Một người đàn ông đến nhà chúng tôi và nói: Mẹ Teresa, có một gia đình với tám đứa con, họ đã không ăn quá lâu – hãy làm điều gì cho họ. Vì vậy, tôi lấy một số gạo và tôi đến đó ngay lập tức. Và tôi thấy các trẻ em – đôi mắt của chúng chiếu sáng với cơn đói – Tôi không biết bạn có bao giờ thấy sự đói. Nhưng tôi thấy rất thường xuyên. Và cô ta đã lấy gạo, cô chia gạo ra, và cô đi ra ngoài. Khi cô ấy trở lại, tôi hỏi cô – cô đã đi đâu, cô đã làm gì? Và cô ấy cho tôi một câu trả lời rất đơn giản: Họ cũng đang đói. Điều gây ấn tượng với tôi nhất là cô biết – và họ là ai, một gia đình Hồi giáo – và cô ấy biết. Tôi đã không đưa thêm gạo tối hôm đó vì tôi muốn họ tận hưởng niềm vui của sự chia sẻ. Nhưng có những đứa trẻ, tỏa ra niềm vui, chia sẻ niềm vui với mẹ mình vì cô đã có tình yêu để cho. Và bạn thấy đây là nơi mà tình yêu bắt đầu – trong nhà. Và tôi muốn bạn – và tôi rất biết ơn những gì tôi đã nhận được. Đây là một kinh nghiệm to lớn và tôi sẽ trở lại Ấn Độ – Tôi sẽ trở lại vào tuần tới, ngày 15, tôi hy vọng – và tôi có thể mang theo tình yêu của các bạn.

And I know well that you have not given from your abundance, but you have given until it has hurt you. Today the little children they have – I was so surprised – there is so much joy for the children that are hungry. That the children like themselves will need love and care and tenderness, like they get so much from their parents. So let us thank God that we have had this opportunity to come to know each other, and this knowledge of each other has brought us very close. And we will be able to help not only the children of India and Africa, but will be able to help the children of the whole world, because as you know our Sisters are all over the world. And with this prize that I have received as a prize of peace, I am going to try to make the home for many people that have no home. Because I believe that love begins at home, and if we can create a home for the poor – I think that more and more love will spread. And we will be able through this understanding love to bring peace, be the good news to the poor. The poor in our own family first, in our country and in the world.
Và tôi biết rõ rằng bạn đã không cho từ sự phong phú của bạn, nhưng bạn cho đến khi nó làm tổn thương bạn. Hôm nay các em nhỏ có được – Tôi rất ngạc nhiên khi có quá nhiều niềm vui cho trẻ em đang bị đói. Những đứa trẻ như chúng sẽ cần tình yêu và sự chăm sóc dịu dàng, giống như chúng nhận được rất nhiều từ cha mẹ của chúng. Vì vậy, chúng ta hãy cảm ơn Chúa vì cơ hội này đến để chúng ta nhận biết nhau, và sự nhận biết nhau này đã xích chúng ta lại gần nhau, rất gần. Và chúng ta có thể giúp đỡ không chỉ trẻ em Ấn Độ và châu Phi, mà có thể giúp đỡ trẻ em trên toàn thế giới, bởi vì như bạn biết Chị Em của chúng tôi có mặt khắp mọi nơi trên thế giới. Và với giải thưởng tôi đã nhận được này là một giải thưởng của hòa bình, tôi sẽ cố gắng làm nhà cho nhiều người không nhà. Bởi vì tôi tin rằng tình yêu bắt đầu trong nhà, và nếu chúng ta có thể tạo ra một ngôi nhà cho người nghèo – Tôi nghĩ rằng tình yêu nhiều hơn và nhiều hơn nữa sẽ lan rộng. Và chúng ta có thể, qua tình yêu hiểu biết mang lại hòa bình này, là tin mừng cho người nghèo. Người nghèo trong chính gia đình của chúng ta trước nhất, rồi trên đất nước ta, và trên thế giới.

To be able to do this, our Sisters, our lives have to be woven with prayer. They have to be woven with Christ to be able to understand, to be able to share. Because today there is so much suffering – and I feel that the passion of Christ is being relived all over again – are we there to share that passion, to share that suffering of people. Around the world, not only in the poor countries, but I found the poverty of the West so much more difficult to remove. When I pick up a person from the street, hungry, I give him a plate of rice, a piece of bread, I have satisfied. I have removed that hunger. But a person that is shut out, that feels unwanted, unloved, terrified, the person that has been thrown out from society – that poverty is so hurtable and so much, and I find that very difficult. Our Sisters are working amongst that kind of people in the West. So you must pray for us that we may be able to be that good news, but we cannot do that without you, you have to do that here in your country. You must come to know the poor, maybe our people here have material things, everything, but I think that if we all look into our own homes, how difficult we find it sometimes to smile at each other, and that the smile is the beginning of love.
Để có thể làm được điều này, Chị Em của chúng tôi, cuộc sống của chúng tôi đã được đan dệt bằng lời cầu nguyện. Cuộc sống của chúng tôi phải được đan dệt với Chúa để có thể hiểu, để có thể chia sẻ. Vì ngày nay có quá nhiều đau khổ – và tôi cảm thấy rằng cuộc khổ nạn của Chúa đang được thực hiện lại – chúng ta có ở đó để chia sẻ cuộc khổ nạn, để chia sẻ nỗi đau khổ đó của con người. Vòng quanh thế giới, không chỉ tại các nước nghèo, nhưng tôi thấy nghèo đói của phương Tây là khó khăn hơn để loại bỏ rất nhiều. Khi tôi thấy một người ngoài đường, bị đói, tôi cho anh ta một dĩa cơm, một miếng bánh mì, tôi hài lòng. Tôi đã xóa bỏ cơn đói đó. Tuy nhiên, một người bị loại bỏ, bị cảm thấy không ai muốn, không được yêu, sợ hãi, người bị ném ra nghèo xã hội- cái nghèo đó có thể là đau đớn rất nhiều, và tôi thấy điều đó rất khó khăn. Chị Em chúng tôi đang làm việc với oại người đó ở phương Tây. Vì vậy, các bạn phải cầu nguyện cho chúng tôi rằng chúng tôi có thể là tin mừng đó, nhưng chúng tôi không thể làm điều đó mà không có các bạn, các bạn phải làm điều đó ở đây trên đất nước các bạn. Các bạn phải biết người nghèo, có thể người của chúng ta ở đây có những thứ vật chất, tất cả mọi thứ, nhưng tôi nghĩ rằng nếu tất cả chúng ta nhìn vào căn nhà riêng của chúng ta, chúng ta thấy khó khăn như thế nào để đôi khi mỉm cười với nhau, và nụ cười là sự bắt đầu của tình yêu.

And so let us always meet each other with a smile, for the smile is the beginning of love, and once we begin to love each other naturally we want to do something. So you pray for our Sisters and for me and for our Brothers, and for our Co-Workers that are around the world. That we may remain faithful to the gift of God, to love Him and serve Him in the poor together with you. What we have done we should not have been able to do if you did not share with your prayers, with your gifts, this continual giving. But I don’t want you to give me from your abundance, I want that you give me until it hurts.
Và vì vậy hãy để chúng ta luôn luôn gặp nhau với nụ cười, nụ cười là khởi đầu của tình yêu, và một khi chúng ta bắt đầu yêu nhau, tự nhiên là chúng ta muốn làm điều gì đó. Vì vậy, bạn cầu nguyện cho Chị Em của chúng tôi và cho tôi và cho Anh Em của chúng tôi, và cho những người làm việc với chúng tôi trên khắp thế giới. Rằng chúng ta có thể vẫn còn trung thành với món quà của Chúa, yêu mến Ngài và phục vụ Ngài trong người nghèo cùng với các bạn. Những gì chúng tôi đã làm chúng tôi không thể làm được nếu các bạn không chia sẻ với những lời cầu nguyện của các bạn, với quà tặng của các bạn, quà tặng liên tục này. Nhưng tôi không muốn bạn cho tôi từ sự phong phú của bạn, tôi muốn bạn cho tôi cho đến khi bạn đau đớn.

The other day I received 15 dollars from a man who has been on his back for twenty years, and the only part that he can move is his right hand. And the only companion that he enjoys is smoking. And he said to me: I do not smoke for one week, and I send you this money. It must have been a terrible sacrifice for him, but see how beautiful, how he shared, and with that money I bought bread and I gave to those who are hungry with a joy on both sides, he was giving and the poor were receiving. This is something that you and I – it is a gift of God to us to be able to share our love with others. And let it be as it was for Jesus. Let us love one another as he loved us. Let us love Him with undivided love. And the joy of loving Him and each other – let us give now – that Christmas is coming so close. Let us keep that joy of loving Jesus in our hearts. And share that joy with all that we come in touch with. And that radiating joy is real, for we have no reason not to be happy because we have no Christ with us. Christ in our hearts, Christ in the poor that we meet, Christ in the smile that we give and the smile that we receive. Let us make that one point: That no child will be unwanted, and also that we meet each other always with a smile, especially when it is difficult to smile.
Ngày hôm nọ tôi nhận được 15 Mỹ kim từ một người đã nằm liệt gường hai mươi năm, và phần duy nhất mà ông có thể cử động được là bàn tay phải của mình. Và bạn đồng hành duy nhất mà ông có được là thuốc lá. Và ông nói với tôi: tôi không hút thuốc trong một tuần, và tôi gửi cho Mẹ số tiền này. Nó phải là một sự hy sinh khủng khiếp đối với ông ta, nhưng sự chia sẻ của ông đẹp biết bao, và dùng số tiền để mua bánh mì và tôi cho những người đói với niềm vui của cả hai bên, ông đã cho và người nghèo đã nhận. Đây là vài điều mà bạn và tôi – một món quà của Chúa cho chúng ta để chúng ta có thể chia sẻ tình yêu của chúng ta với người khác. Và hãy cho như đã cho Giêsu. Hãy yêu nhau như Ngài yêu chúng ta. Hãy yêu Ngài với tình yêu không phân chia. Và niềm vui của lòng yêu thương Ngài và với nhau -chúng ta hãy cho bây giờ – Giáng sinh sắp đến. Hãy giữ niềm vui của tình yêu Chúa đó trong trái tim của chúng ta. Và chia sẻ niềm vui đó với tất cả những ai chúng ta gặp gỡ. Và niềm vui tỏa sáng đó là sự thật, vì chúng ta không có lý do gì để không được hạnh phúc bởi vì chúng ta không có Chúa với chúng ta. Chúa trong trái tim ta, Chúa trong người nghèo mà chúng ta gặp gỡ, Chúa trong nụ cười mà chúng ta cho và nụ cười mà chúng ta nhận. Hãy để chúng ta thực hiện một điểm: Rằng không một trẻ thơ nào bị ruồng bỏ, và rằng chúng ta luôn gặp nhau với một nụ cười, đặc biệt là khi khó có thể cười.

I never forget some time ago about fourteen professors came from the United States from different universities. And they came to Calcutta to our house. Then we were talking about that they had been to the home for the dying. We have a home for the dying in Calcutta, where we have picked up more than 36,000 people only from the streets of Calcutta, and out of that big number more than 18,000 have died a beautiful death. They have just gone home to God; and they came to our house and we talked of love, of compassion, and then one of them asked me: Say, Mother, please tell us something that we will remember, and I said to them: Smile at each other, make time for each other in your family. Smile at each other. And then another one asked me: Are you married, and I said: Yes, and I find it sometimes very difficult to smile at Jesus because he can be very demanding sometimes. This is really something true, and there is where love comes – when it is demanding, and yet we can give it to Him with joy. Just as I have said today, I have said that if I don’t go to Heaven for anything else I will be going to Heaven for all the publicity because it has purified me and sacrificed me and made me really ready to go to Heaven. I think that this is something, that we must live life beautifully, we have Jesus with us and He loves us. If we could only remember that God loves me, and I have an opportunity to love others as he loves me, not in big things, but in small things with great love, then Norway becomes a nest of love. And how beautiful it will be that from here a centre for peace has been given. That from here the joy of life of the unborn child comes out. If you become a burning light in the world of peace, then really the Nobel Peace Prize is a gift of the Norwegian people. God bless you!
Tôi không bao giờ quên mọt thời gian trước đây có khoảng mười bốn vị giáo sư đến từ từ các trường đại học khác nhau ở Mỹ. Và họ tới Calcutta đến nhà của chúng tôi. Sau đó, chúng tôi đã nói chuyện họ đã đến nhà của những người sắp chết. Chúng tôi có một ngôi nhà cho người hấp hối ở Calcutta, nơi mà chúng tôi đã nhận hơn 36.000 người từ các đường phố của Calcutta, và con số lớn hơn 18.000 đã chết một cái chết rất đẹp. Họ mới vừa trở về nhà với Chúa; và họ đến nhà chúng tôi và chúng tôi nói về tình yêu, về lòng từ bi, và sau đó một trong số đó hỏi tôi: Này, Mẹ, xin cho chúng tôi biết vài điều mà chúng tôi sẽ ghi nhớ, và tôi nói với họ: Hãy mỉm cười với nhau, dành thời gian cho nhau trong gia đình của bạn. Mỉm cười với nhau. Và sau đó một người khác hỏi tôi: Tôi có lập gia đình không, và tôi nói: Có, và tôi thấy đôi khi rất khó để mỉm cười với Chúa Giêsu, vì Ngài có thể đòi hỏi rất nhiều. Điều này thực sự phần nào là đúng, và nơi mà tình yêu đến – khi rất đòi hỏi, nhưng chúng ta có thể cho Ngài với niềm vui. Như tôi đã nói ngày hôm nay, tôi nói rằng nếu tôi không lên Thiên đường vì bất cứ điều gì khác thì tôi sẽ được lên thiên đường vì những quảng bá tên tuổi vì chúng làm tôi tinh khiết và hy sinh tôi i và làm tôi thực sự sẵn sàng để lên Thiên đường. Tôi nghĩ rằng đây là điều đáng nói, chúng ta phải sống một cuộc sống thật đẹp, chúng ta có Chúa với chúng ta và Ngài yêu thương chúng ta. Nếu chúng ta chỉ cần nhớ rằng Chúa yêu tôi, và tôi có một cơ hội để yêu người khác như Ngài yêu tôi, không phải với những gì lớn lao, nhưng trong những gì bé nhỏ với tình yêu vĩ đại, từ đó Na Uy trở thành một tổ ấm của tình yêu. Và tuyệt vời làm sao khi từ nơi đây một trung tâm cho hòa bình đã được trao tặng. Từ đây, niềm vui cuộc sống của trẻ thơ chưa sinh hiện diện. Nếu các bạn trở thành một ngọn đèn cháy sáng trong thế giới hòa bình, thì thực sự giải Nobel Hòa bình là một món quà của người dân Na Uy. Chúa ban phúc lành cho bạn!
(Diệu Sương dịch)







"Ông già Noel là có thật"


Một lá thư nổi tiếng khắp thế giới, mà cô bé Virginia O’Hanlon ở nước Mỹ xa xôi, gửi cho ban biên tập của tờ báo The Sun, để họ giúp em trả lời một câu hỏi mà bất kỳ đứa trẻ nào cũng đã từng thắc mắc: "Ông già Noel có thật hay không?"

Một mùa Giáng sinh nữa lại về, cầu chúc cho tất cả mọi người một Giáng sinh an lành và ấm áp. Không biết các bạn đã viết thư hỏi xin ông già Noel tặng quà gì cho mình chưa? Còn tôi, mỗi khi đến lễ Giáng sinh, tôi đều nhớ tới lá thư của cô bé Virginia O’Hanlon ở nước Mỹ xa xôi, gửi cho ban biên tập của tờ báo The Sun, để họ giúp em trả lời một câu hỏi mà bất kỳ đứa trẻ nào cũng đã từng thắc mắc: "Ông già Noel có thật hay không?"
Câu trả lời của The Sun không chỉ giúp Virginia và những đứa trẻ khác có thêm niềm tin vào phép màu của Giáng sinh, mà còn khiến những người lớn như tôi và các bạn được trở về tuổi thơ một lần nữa.

“YES, VIRGINIA, THERE IS A SANTA CLAUS”
"Ông già Noel là có thật"

Eight-year-old Virginia O’Hanlon wrote a letter to the editor of New York’s Sun, and the quick response was printed as an unsigned editorial Sept. 21, 1897. The work of veteran newsman Francis Pharcellus Church has since become history’s most reprinted newspaper editorial, appearing in part or whole in dozens of languages in books, movies, and other editorials, and on posters and stamps.

Bức thư của Virginia:


DEAR EDITOR: I am 8 years old.

Some of my little friends say there is no Santa Claus.
Papa says, ‘If you see it in THE SUN it’s so.’
Please tell me the truth; is there a Santa Claus?
VIRGINIA O’HANLON.
15 WEST NINETY-FIFTH STREET.

Thưa bác Tổng biên tập, Cháu là Virginia. Năm nay cháu lên 8 tuổi.

Các bạn ở lớp cháu nói rằng ông già Noel không có thật.

Nhưng bố lại bảo "Nếu The Sun nói là có ông già Noel, thì đó đúng là như vậy."

Vậy xin bác hãy cho cháu biết sự thật có phải như thế không? Cháu vẫn luôn tin rằng có ông già Noel đấy ạ.

Virginia O’Hanlon
Số 115, hướng Tây đường 95.

VIRGINIA, your little friends are wrong. They have been affected by the skepticism of a skeptical age. They do not believe except they see. They think that nothing can be which is not comprehensible by their little minds. All minds, Virginia, whether they be men’s or children’s, are little. In this great universe of ours man is a mere insect, an ant, in his intellect, as compared with the boundless world about him, as measured by the intelligence capable of grasping the whole of truth and knowledge.
Virginia yêu quý, Những người bạn ở lớp cháu đã nói sai rồi. Các bạn ấy đã bị ảnh hưởng bởi sự hoài nghi của một thời đại hoài nghi. Các bạn ấy không tin vào bất cứ điều gì, trừ khi các bạn ấy được tận mắt chứng kiến. Bằng tâm trí bé nhỏ của mình, các bạn ấy đã biến mọi việc trở nên phức tạp hơn. Virginia thân mến, hãy nhớ nhé, cho dù sau này các bạn ấy có lớn lên, thì suy nghĩ của họ vẫn bé nhỏ như bây giờ. Còn Virginia thì không giống vậy. Cháu có một tâm hồn trong sáng và khoáng đạt khi cháu có niềm tin vào ông già Noel. Trong vũ trụ rộng lớn và vĩ đại của chúng ta, con người đôi khi còn chẳng thông minh được bằng một chú kiến. Chúng ta không thể nào nắm bắt được hết kiến thức và toàn bộ sự thật đâu Virginia à.
Yes, VIRGINIA, there is a Santa Claus. He exists as certainly as love and generosity and devotion exist, and you know that they abound and give to your life its highest beauty and joy. Alas! how dreary would be the world if there were no Santa Claus. It would be as dreary as if there were no VIRGINIAS. There would be no childlike faith then, no poetry, no romance to make tolerable this existence. We should have no enjoyment, except in sense and sight. The eternal light with which childhood fills the world would be extinguished.
Cô gái bé nhỏ này, cháu hãy cứ giữ vững niềm tin của mình nhé. Bởi vì ông già Noel là có thật đấy. Ông già với bộ râu dài bạc trắng, mặc một bộ quần áo đỏ che đi cái bụng phệ, cưỡi trên xe tuần lộc băng qua bầu trời đêm để trao quà cho các em bé ngoan là có thật. Ông già Noel tồn tại để chắc chắn rằng tình yêu và lòng nhân ái có tồn tại. Cháu sẽ nhận được nhiều niềm vui và cuộc sống sẽ trở nên ý nghĩa hơn nếu cháu tin vào ông già Noel. Thật buồn làm sao nếu thế giới này không tồn tại một người đàn ông tuyệt vời như thế. Và cũng thật đáng tiếc nếu như mọi người đánh mất niềm tin vào ông già Noel. Các em bé sẽ không còn được tặng quà nữa, không có các bài thơ cũng chẳng có bất kỳ sự lãng mạn nào nếu ông già Noel chỉ là một lời nói dối. Thế nên Virginia hãy giúp ông già Noel lan tỏa niềm tin này đến tất cả mọi người nhé. Chỉ cần nghĩ đến việc ông già Noel là một nhân vật hư cấu thì tất cả những ánh sáng, niềm vui, hạnh phúc của tuổi thơ đều bị dập tắt hết cả, đừng để chuyện này xảy ra, cháu yêu à.
Not believe in Santa Claus! You might as well not believe in fairies! You might get your papa to hire men to watch in all the chimneys on Christmas Eve to catch Santa Claus, but even if they did not see Santa Claus coming down, what would that prove? Nobody sees Santa Claus, but that is no sign that there is no Santa Claus. The most real things in the world are those that neither children nor men can see. Did you ever see fairies dancing on the lawn? Of course not, but that’s no proof that they are not there. Nobody can conceive or imagine all the wonders there are unseen and unseeable in the world.
Nếu không tin vào ông già Noel vậy thì các nàng tiên thì sao? Cháu vẫn thích các nàng tiên có cánh cầm một cây đũa thần đúng không? Đừng suy nghĩ nữa nhé, hoặc nếu vẫn muốn, Virginia có thể bảo bố thức đến 12 giờ đêm để chờ ông già Noel chui vào ống khói và "bắt" ông. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nhỉ nếu như cháu không nhìn thấy ông ấy? Điều đó có chứng minh được gì không? Chưa ai từng nhìn thấy ông già Noel cả. Nhưng điều đó cũng chẳng nói lên rằng Santa Claus không có thật. Thế giới còn ẩn chứa rất nhiều bí ẩn mà cả người lớn lẫn trẻ con vẫn chưa thể khám phá ra, vậy thì hãy cứ tin đi, Virginia nhé. Không ai có đủ khả năng và nhận thức để tưởng tượng ra những điều kỳ diệu vô hình của vũ trụ.
You may tear apart the baby’s rattle and see what makes the noise inside, but there is a veil covering the unseen world which not the strongest man, nor even the united strength of all the strongest men that ever lived, could tear apart. Only faith, fancy, poetry, love, romance, can push aside that curtain and view and picture the supernal beauty and glory beyond. Is it all real? Ah, VIRGINIA, in all this world there is nothing else real and abiding.
Giáng sinh đưa chúng ta đến gần nhau hơn, ông già Noel chính là biểu tượng của sự sum vầy, đủ đầy và hạnh phúc mà mỗi người đều khát khao. Không có bất cứ điều gì sánh được với ông già nhân hậu ấy để khiến mọi người trên thế giới đoàn kết với nhau hơn. Chỉ có đức tin, tình yêu, thơ ca và lãng mạn mới đủ sức mạnh khiến con người trở nên tốt đẹp hơn. Đừng nghe lời những người bạn của cháu, hãy giúp họ hiểu được có đức tin là điều tuyệt vời như thế nào. Nên cô gái của chúng ta cứ việc tin những gì cháu cho là đúng, điều khiến cháu cảm thấy hạnh phúc khi nghĩ về. Hãy để tuổi thơ của cháu được tắm mát trong niềm tin về điều kỳ diệu và cả những phép màu.
No Santa Claus! Thank God! he lives, and he lives forever. A thousand years from now, Virginia, nay, ten times ten thousand years from now, he will continue to make glad the heart of childhood.
Virginia thương mến, ông già Noel thực sự có thật. Ông đã sống và sẽ sống mãi mãi trong tuổi thơ của chúng ta. Dù 10 năm, 100 năm hay 10 ngàn năm sau, Santa Claus vẫn là một phép màu của lễ Giáng sinh, ông sẽ tiếp tục tặng cho chúng ta những kỷ niệm đẹp trong thời thơ ấu.


Air traffic in the USA


Kiểm soát không lưu tại Mỹ



An accident that occurred in the skies over the Grand Canyon in 1956 resulted in the establishment of the Federal Aviation Administration (FAA) to regulate and oversee the operation of aircraft in the skies over the United States, which were becoming quite congested.

The resulting structure of air traffic control has greatly increased the safety of flight in the United States, and similar air traffic control procedures are also in place over much of the rest of the world.

Rudimentary air traffic control (ATC) existed well before the Grand Canyon disaster.

As early as the 1920s, the earliest air traffic controllers manually guided aircraft in the vicinity of the airports, using lights and flags, while beacons and flashing lights were placed along cross-country routes to establish the earliest airways.

However, this purely visual system was useless in bad weather, and, by the 1930s, radio communication was coming into use for ATC.

The first region to have something approximating today’s ATC was New York City, with other major metropolitan areas following soon after.

In the 1940s, ATC centres could and did take advantage of the newly developed radar and improved radio communication brought about by the Second World War, but the system remained rudimentary.

It was only after the creation of the FAA that full-scale regulation of America’s airspace took place, and this was fortuitous, for the advent of the jet engine suddenly resulted in a large number of very fast planes, reducing pilots’ margin of error and practically demanding some set of rules to keep everyone well separated and operating safely in the air.


Many people think that ATC consists of a row of controllers sitting in front of their radar screens at the nation’s airports, telling arriving and departing traffic what to do.

This is a very incomplete part of the picture.


The FAA realised that the airspace over the United States would at any time have many different kinds of planes, flying for many different purposes, in a variety of weather conditions, and the same kind of structure was needed to accommodate all of them.

To meet this challenge, the following elements were put into effect.

First, ATC extends over virtually the entire United States.

In general, from 365m above the ground and higher, the entire country is blanketed by controlled airspace.

In certain areas, mainly near airports, controlled airspace extends down to 215m above the ground, and, in the immediate vicinity of an airport, all the way down to the surface.

Controlled airspace is that airspace in which FAA regulations apply.

Elsewhere, in uncontrolled airspace, pilots are bound by fewer regulations.


In this way, the recreational pilot who simply wishes to go flying for a while without all the restrictions imposed by the FAA has only to stay in uncontrolled airspace, below 365m, while the pilot who does want the protection afforded by ATC can easily enter the controlled airspace.

The FAA then recognised two types of operating environments.

In good meteorological conditions, flying would be permitted under Visual Flight Rules (VFR), which suggests a strong reliance on visual cues to maintain an acceptable level of safety.

Poor visibility necessitated a set of Instrumental Flight Rules (IFR), under which the pilot relied on altitude and navigational information provided by the plane’s instrument panel to fly safely.

On a clear day, a pilot in controlled airspace can choose a VFR or IFR flight plan, and the FAA regulations were devised in a way which accommodates both VFR and IFR operations in the same airspace.

However, a pilot can only choose to fly IFR if they possess an instrument rating which is above and beyond the basic pilot’s license that must also be held.

Controlled airspace is divided into several different types, designated by letters of the alphabet.

Uncontrolled airspace is designated Class F, while controlled airspace below 5,490m above sea level and not in the vicinity of an airport is Class E.


All airspace above 5,490m is designated Class A.

The reason for the division of Class E and Class A airspace stems from the type of planes operating in them.

Generally, Class E airspace is where one finds general aviation aircraft (few of which can climb above 5,490m anyway), and commercial turboprop aircraft.


Above 5,490m is the realm of the heavy jets, since jet engines operate more efficiently at higher altitudes.

The difference between Class E and A airspace is that in Class A, all operations are IFR, and pilots must be instrument-rated, that is, skilled and licensed in aircraft instrumentation.

This is because ATC control of the entire space is essential.

Three other types of airspace, Classes D, C and B, govern the vicinity of airports.

These correspond roughly to small municipal, medium-sized metropolitan and major metropolitan airports respectively, and encompass an increasingly rigorous set of regulations.

For example, all a VFR pilot has to do to enter Class C airspace is establish two-way radio contact with ATC.

No explicit permission from ATC to enter is needed, although the pilot must continue to obey all regulations governing VFR flight.


To enter Class B airspace, such as on approach to a major metropolitan airport, an explicit ATC clearance is required.

The private pilot who cruises without permission into this airspace risks losing their license.
Một tai nạn đã xảy ra trên bầu trời Grand Canyon năm 1956 dẫn đến việc thành lập Cục quản lý Hàng không liên bang (FAA) để điều tiết và giám sát các hoạt động của máy bay trên bầu trời nước Mỹ, mà ngày đang trở nên khá chật chội.


Việc thành lập kiểm soát không lưu đã tăng độ an toàn cho các chuyến bay ở Hoa Kỳ lên rất nhiều, và trên thế giới cũng đang áp dụng các thủ tục kiểm soát không lưu tương tự.


Trạm kiểm soát không lưu (ATC) thô sơ đã có trước thảm họa Grand Canyon.

Vào đầu những năm 1920, các bộ điều khiển không lưu bằng tay hướng dẫn máy bay trong vùng lân cận của sân bay, sử dụng đèn và cờ, và các cảnh báo và đèn nhấp nháy được đặt dọc theo các tuyến đường xuyên quốc gia để thiết lập các đường hàng không sớm nhất.

Tuy nhiên, hệ thống hoàn toàn phụ thuộc vào thị giác này sẽ trở nên vô dụng khi gặp thời tiết xấu, và, vào những năm 1930, thông tin vô tuyến đã được sử dụng cho ATC.

Các khu vực đầu tiên để có thiết bị gần giống với ATC ngày nay là thành phố New York, với các khu vực đô thị lớn khác ngay sau đó.


Trong những năm 1940, các trung tâm ATC có thể và đã tận dụng lợi thế của các radar và thông tin vô tuyến mới được phát triển và cải thiện trước Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng hệ thống vẫn còn thô sơ.

Chỉ sau khi sự ra đời của FAA đã đưa ra  quy định đầy đủ trong không phận của nước Mỹ, và điều này là ngẫu nhiên, đối với sự ra đời của động cơ phản lực dẫn đến một số lượng lớn các máy bay rất nhanh, làm giảm sai số phi công 'và thực tế đòi hỏi một số thiết lập các quy tắc để giữ cho tất cả mọi người cũng tách ra và hoạt động một cách an toàn trong không khí.

Nhiều người nghĩ rằng ATC gồm một hàng các bộ điều khiển ngồi trước màn hình radar của họ tại các sân bay của nước này, nói đến và khởi hành giao thông phải làm gì.

Đây là một phần rất không đầy đủ của hình ảnh.

FAA nhận ra rằng không phận Hoa Kỳ sẽ bất cứ lúc nào có nhiều loại khác nhau của máy bay, bay cho nhiều mục đích khác nhau, trong một loạt các điều kiện thời tiết, và cùng một loại cấu trúc là cần thiết để chứa tất cả trong số họ.

Để đáp ứng thách thức này, các yếu tố sau đây đã được đưa vào hiệu lực.

Đầu tiên, ATC rộng trên hầu như toàn bộ Hoa Kỳ.

Nói chung, từ 365m so với mặt đất cao hơn, toàn bộ đất nước được bao phủ bởi không phận kiểm soát.

Tại các khu vực nhất định, chủ yếu là gần sân bay, kiểm soát không phận kéo dài xuống đến 215m so với mặt đất, và trong vùng lân cận của một sân bay, tất cả các con đường xuống bề mặt.

Không phận kiểm soát là không phận, trong đó quy định FAA áp dụng.

Ở những nơi khác, trong không phận kiểm soát được, phi công bị ràng buộc bởi các quy định ít hơn.

Bằng cách này, các thí điểm giải trí người chỉ đơn giản muốn đi bay trong một thời gian mà không có tất cả các hạn chế áp đặt bởi FAA đã chỉ ở lại trong không phận kiểm soát được, bên dưới 365m, trong khi các phi công đã không muốn sự bảo vệ bởi ATC có thể dễ dàng nhập không phận kiểm soát.

FAA sau đó công nhận hai loại môi trường hoạt động.

Trong điều kiện khí tượng tốt, bay sẽ được cho phép theo Quy định thị giác bay (VFR), điều này cho thấy một sự phụ thuộc mạnh mẽ vào tín hiệu thị giác để duy trì một mức độ chấp nhận được an toàn.

Tầm nhìn kém đòi hỏi một bộ Instrumental Quy tắc bay (IFR), theo đó, thí điểm dựa trên độ cao và thông tin định vị cung cấp bởi bảng điều khiển của máy bay để bay một cách an toàn.

Vào một ngày đẹp trời, một phi công trong không phận kiểm soát có thể lựa chọn một kế hoạch VFR hoặc chuyến bay IFR, và các quy định của FAA đã nghĩ ra một cách, có từ hoạt động cả VFR và IFR trong vùng trời cùng.

Tuy nhiên, một phi công chỉ có thể chọn để bay IFR nếu họ có một đánh giá cụ mà là ở trên và vượt ra ngoài giấy phép phi công cơ bản của điều đó cũng phải được tổ chức.

Không phận điều khiển được chia thành các loại khác nhau, được chỉ định bởi các chữ của bảng chữ cái.

Không phận không kiểm soát được chỉ định lớp F, trong khi không phận kiểm soát dưới 5,490m so với mực nước biển và không có trong vùng lân cận của một sân bay được lớp E.

Tất cả không phận trên 5,490m được chỉ lớp A.

Lý do cho sự phân chia của Class E và Class A không phận xuất phát từ các loại máy bay hoạt động trong đó.

Nói chung, Class E không phận là nơi mà người ta tìm thấy chiếc máy bay nói chung hàng không (vài trong số đó có thể lên cao trên 5,490m anyway), và máy bay phản lực cánh quạt thương mại.

Trên 5,490m là vương quốc của các máy bay phản lực nặng nề, vì động cơ phản lực hoạt động hiệu quả hơn ở độ cao cao hơn.

Sự khác biệt giữa Class E và A không phận là trong lớp A, tất cả các hoạt động đều IFR, và các phi công phải có công cụ đánh giá cao, đó là, có tay nghề và cấp giấy phép trong máy bay bị đo đạc.

Điều này là do ATC kiểm soát toàn bộ không gian là điều cần thiết.

Ba loại khác không phận, Lớp D, C và B, chi phối các vùng lân cận của sân bay.

Những tương ứng khoảng đến thành phố, sân bay thủ đô và lớn vừa nhỏ đô thị tương ứng, và bao gồm một tập hợp ngày càng khắt khe của quy định.


Ví dụ, tất cả các phi công VFR phải làm gì để nhập loại C không phận là thiết lập hai chiều liên lạc vô tuyến với ATC.

Không cho phép rõ ràng từ Lô Hội nhập là cần thiết, mặc dù các phi công phải tiếp tục tuân thủ tất cả các quy định về chuyến bay VFR.

Để nhập Class B không phận, chẳng hạn như trên cách tiếp cận tới một sân bay đô thị lớn, một phóng ATC rõ ràng là cần thiết.

Các phi công tư nhân du lịch trên biển mà không có sự cho phép vào không phận này có nguy cơ mất giấy phép của họ.


NGỌC THU

ARTCANDY SHOP NGỌC THU -     Trên   bước   đường   THÀNH   CÔNG , không   có   dấu   chân   của   những   kẻ   LƯỜI   BIẾNG . ...