The man who invented synthetic dyes: Người phát minh ra thuốc nhuộm tổng hợp

 

A

The man who invented synthetic dyes William Henry Perkin was born on March 12,1838, in London, England.
Người phát minh ra thuốc nhuộm tổng hợp William Henry Perkin sinh ngày 12 tháng 3 năm 1838 ở London, Anh.

B

As a boy, Perkin’s curiosity prompted early interests in the arts, sciences, photography, and engineering.
Khi còn là một cậu bé, sự tò mò của Perkin đã sớm gợi lên những mối quan tâm về nghệ thuật, khoa học, nhiếp ảnh và kỹ thuật.

But it was a chance stumbling upon a run-down, yet functional, laboratory in his late grandfather’s home that solidified the young man’s enthusiasm for chemistry.
Tuy nhiên trong một lầntình cờ khám phá ra một phòng thí nghiệm bị bỏ quênnhưng vẫn hoạt độngtại nhà người ông quá cố của mình, chàng trai trẻ đã quan tâm nhiệt tình về hóa học hơn.

C

As a student at the City of London School, Perkin became immersed in the study of chemistry.
Khi còn là một sinh viên tại Trường Thành phố London, Perkin đã dần đắm mình trong nghiên cứu về hóa học.

His talent and devotion to the subject were perceived by his teacher, Thomas Hall, who encouraged him to attend a series of lectures given by the eminent scientist Michael Faraday at the Royal Institution.
Tài năng và sự cống hiến của ông cho môn học này đã được công nhận bởi giáo viên của ông, Thomas Hall, người khuyến khích ông tham dự một loạt các bài giảng được đưa ra bởi nhà khoa học nổi tiếng Michael Faraday tại Viện Hoàng gia.


Those speeches fired the young chemist’s enthusiasm further, and he later went on to attend the Royal College of Chemistry, which he succeeded in entering in 1853, at the age of 15.
Những bài phát biểu đó đã kích thích sự nhiệt tình của nhà nghiên cứu trẻ, và sau đó ông tiếp tục theo học tại Đại học Hóa học Hoàng gia, nơi mà ông đã thành công trong việc đăng kí vào năm 1853, ở tuổi 15.


D

At the time of Perkin’s enrolment, the Royal College of Chemistry was headed by the noted German chemist August Wilhelm Hofmann.
Vào thời điểm ghi danh của Perkin, Trường Cao đẳng Hóa học Hoàng gia được đứng đầu bởi nhà hóa học nổi tiếng người Đức August Wilhelm Hofmann.

Perkin’s scientific gifts soon caught Hofmann’s attention and, within two years, he became Hofmann’s youngest assistant.
Tài năng về khoa học của Perkin nhanh chóng thu hút sự chú ý của Hofmann, và trong vòng hai năm, ông trở thành trợ lý trẻ nhất của Hofmann.

Not long after that, Perkin made the scientific breakthrough that would bring him both fame and fortune.
Không lâu sau đó Perkin đã tạo ra những đột phá khoa học mà mang lại cho ông cả danh vọng và tiền bạc.


E

At the time, quinine was the only viable medical treatment for malaria.
Vào thời điểm đó, thuốc quinine là thuốc điều trị y khoa hữu hiệu trị bệnh sốt rét.

The drug is derived from the bark of the cinchona tree, native to South America, and by 1856 demand for the drug was surpassing the available supply.
Thuốc có nguồn gốc từ vỏ cây cinchona, có nguồn gốc ở Nam Mỹ, và vào năm 1856 nhu cầu về thuốc đã vượt quá nguồn cung hiện có.

Thus, when Hofmann made some passing comments about the desirability of a synthetic substitute for quinine, it was unsurprising that his star pupil was moved to take up the challenge.
Vì vậy, khi Hofmann đưa ra một số nhận xét về việc mong muốn của một chất thay thế tổng hợp cho quinin, không có gì đáng ngạc nhiên khi học trò ngôi sao của ông ta đã chấp nhận thử thách này.

F

During his vacation in 1856, Perkin spent his time in the laboratory on the top floor of his family’s house.
Trong kỳ nghỉ của mình năm 1856, Perkin đã dành thời gian trong phòng thí nghiệm ở tầng trên cùng trong ngôi nhà của gia đình ông.

He was attempting to manufacture quinine from aniline, an inexpensive and readily available coal tar waste product.
Ông đã cố gắng sản xuất quinine từ aniline, một sản phẩm chất thải than đá rẻ tiền và sẵn có.

Despite his best efforts, however, he did not end up with quinine.
Tuy nhiên, dù đã nỗ lực hết mình, ông đã không thành công điều chế quinin.

Instead, he produced a mysterious dark sludge.
Thay vào đó, ông đã sản xuất một chất bùn đen bí ẩn.

Luckily, Perkin’s scientific training and nature prompted him to investigate the substance further.
May mắn thay, do được huấn luyện và tài năng bẩm sinh về khoa học đã thúc đẩy Perkin nghiên cứu thêm về chất này.

Incorporating potassium dichromate and alcohol into the aniline at various stages of the experimental process, he finally produced a deep purple solution.
Kết hợp kali diicat và cồn vào aniline ở các giai đoạn khác nhau của quá trình thí nghiệm, cuối cùng ông đã tạo ra một dung dịch màu tím đậm.

And, proving the truth of the famous scientist Louis Pasteur’s words ‘chance favours only the prepared mind’, Perkin saw the potential of his unexpected find.
Và, chứng minh sự thật về những lời của nhà khoa học nổi tiếng Louis Pasteur: "Cơ hội chỉ tạo thuận lợi cho tâm trí đã chuẩn bị sẵn sàng", Perkin đã nhìn thấy tiềm năng về khám phá bất ngờ này của mình.

G

Historically, textile dyes were made from such natural sources as plants and animal excretions.
Về mặt lịch sử, thuốc nhuộm được làm từ các nguồn tự nhiên là các chất bài tiết của động vật và thực vật.

Some of these, such as the glandular mucus of snails, were difficult to obtain and outrageously expensive.
Một số trong số này, chẳng hạn như chất nhầy tuyến hạch của ốc sên, rất khó kiếm và cực kì tốn kém.

Indeed, the purple colour extracted from a snail was once so costly that in society at the time only the rich could afford it.
Thật vậy, màu tím chiết xuất từ ​​ốc sên đã từng tốn kém đến mức mà trong xã hội vào thời đó chỉ có người giàu có đủ khả năng chi trả.

Further, natural dyes tended to be muddy in hue and fade quickly.
Hơn nữa, thuốc nhuộm tự nhiên có xu hướng bị xỉn màu và bị phai nhanh chóng. .

It was against this backdrop that Perkin’s discovery was made.
Nó đã chống lại nền tảng mà phát hiện của Perkin đã làm được.

H

Perkin quickly grasped that his purple solution could be used to colour fabric, thus making it the world’s first synthetic dye.
Perkin nhanh chóng hiểu rằng cái dung dịch màu tím đã được sử dụng cho vải màu, do đó khiến nó thành thuốc nhuộm tổng hợp đầu tiên trên thế giới.

Realising the importance of this breakthrough, he lost no time in patenting it.
Nhận thức được tầm quan trọng của bước đột phá này, ông đã không mất thời gian để được cấp bằng sáng chế.

But perhaps the most fascinating of all Perkin’s reactions to his find was his nearly instant recognition that the new dye had commercial possibilities.
Nhưng có thể điều thú vị nhất trong tất cả những phản ứng của Perkin đối với phát hiện của ông là việc gần như ngay lập tức ông nhận ra rằng thuốc nhuộm mới có khả năng sinh lời.

I

Perkin originally named his dye Tyrian Purple, but it later became commonly known as mauve (from the French for the plant used to make the colour violet).
Perkin đã đặt tên cho thuốc nhuộm của ông một cách thông thường là Tyrian Purple, nhưng sau đó nó đã được biết đến nhiều như là màu cẩm quỳ (từ này có nguồn gốc từ tiếng Pháp chỉ loài thực vật tạo ra màu tím).

He asked advice of Scottish dye works owner Robert Pullar, who assured him that manufacturing the dye would be well worth it if the colour remained fast (would not fade) and the cost was relatively low.
Ông ấy đã xin lời khuyên của một ông chủ làm về thuốc nhuộm người Scotland tên là Robert Pullar, người đã đảm bảo với ông ấy rằng việc sản xuất thuốc nhuộm sẽ rất đáng để làm nếu như màu sắc giữ được lâu (tức không phai) và giá thành tương đối thấp.

So, over the fierce objections of his mentor Hofmann, he left college to give birth to the modern chemical industry.
Bởi vậy, bất chấp sự phản đối quyết liệt của người thầy của mình là Hofmann, ông rời trường đại học để cho ra đời nền công nghiệp hóa chất hiện đại.

J

With the help of his father and brother, Perkin set up a factory not far from London.
Với sự giúp đỡ của cha và anh trai, Perkin thành lập một nhà máy gần London

Utilising the cheap and plentiful coal tar that was an almost unlimited by product of London’s gas street lighting, the dye works began producing the world’s first synthetically dyed material in 1857.
Việc sử dụng nhựa than đá rẻ và nhiều gần như không giới hạn bởi sản phẩm bóng đèn đường thắp bằng khí đốt ở London, những việc liên quan đến thuốc nhuộm đã bắt đầu sản xuất ra chất liệu nhuộm tổng hợp đầu tiên trên thế giới vào năm 1857.


The company received a commercial boost from the Empress Eugenie of France, when she decided the new colour flattered her.
Công ty nhận được sự quảng bá thương mại từ nữ hoàng Eugenie của Pháp, khi mà bà ấy quyết định màu mới này đã làm hài lòng bà ta.

Very soon, mauve was the necessary shade for all the fashionable ladies in that country.
Rất nhanh chóng, màu hoa cà đã trở thành màu sắc cần thiết cho mọi quý bà sành về thời trang ở quốc gia đó.

K

Not to be outdone, England’s Queen Victoria also appeared in public wearing a mauve gown, thus making it all the rage in England as well.
Không chịu thua kém, nữ hoàng Anh Victoria cũng xuất hiện trước công chúng trong chiếc váy màu bông cà, do đó màu này trở nên phổ biến ở Anh.

The dye was bold and fast, and the public clamoured for more.
Thuốc nhuộm đậm và bền, và công chúng yêu cầu nhiều hơn.


Perkin went back to the drawing board.
Perkin quay trở về làm lại từ đầu.

L

Although Perkin’s fame was achieved and fortune assured by his first discovery, the chemist continued his research.
Mặc dù danh tiếng của Perkin đã đạt được và sự giàu có được đảm bảo bởi sự khám phá của ông, nhà hóa học này vẫn tiếp tục việc nghiên cứu của mình

Among other dyes he developed and introduced were aniline red (1859) and aniline black (1863) and, in the late 1860s, Perkin’s green.
Trong số các thuốc nhuộm khác nhau ông đã phát triển và giới thiệu là anilin đỏ (1859) và anilin đen (1863) và cuối những năm 1860 có màu xanh của Perkin.


It is important to note that Perkin’s synthetic dye discoveries had outcomes far beyond the merely decorative.
Chúng ta cũng cần chú ý rằng sự khám phá thuốc nhuộm tổng hợp của Perkin đã có kết quả vượt xa việc trang trí đơn thuần.


The dyes also became vital to medical research in many ways.
Các thuốc nhuộm cũng trở nên quan trọng đối với nghiên cứu y học trong nhiều cách.

For instance, they were used to stain previously invisible microbes and bacteria, allowing researchers to identify such bacilli as tuberculosis, cholera, and anthrax.
Ví dụ, chúng từng được sử dụng để đánh dấu vi sinh vật và vi khuẩn không được nhìn thấy trước đó, giúp các nhà nghiên cứu xác định các trực khuẩn như bệnh lao, bệnh tả, và bệnh than.


Artificial dyes continue to play a crucial role today.
Thuốc nhuộm nhân tạo tiếp tục đóng vai trò quan trọng ngày nay

And, in what would have been particularly pleasing to Perkin, their current use is in the search for a vaccine against malaria.
Và, một trong những điều đang khiến Perkin hài lòng là công dụng hiện tại của chúng là trong các nghiên cứu cho một loại vắc xin chống lại bệnhsốt rét.

The man who invented synthetic dyes William Henry Perkin was born on March 12,1838, in London, England.
Người phát minh ra thuốc nhuộm tổng hợp William Henry Perkin sinh ngày 12 tháng 3 năm 1838 ở London, Anh.

As a boy, Perkin’s curiosity prompted early interests in the arts, sciences, photography, and engineering.
Khi còn là một cậu bé, sự tò mò của Perkin đã sớm gợi lên những mối quan tâm về nghệ thuật, khoa học, nhiếp ảnh và kỹ thuật.

But it was a chance stumbling upon a run-down, yet functional, laboratory in his late grandfather’s home that solidified the young man’s enthusiasm for chemistry.
Tuy nhiên trong một lầntình cờ khám phá ra một phòng thí nghiệm bị bỏ quênnhưng vẫn hoạt độngtại nhà người ông quá cố của mình, chàng trai trẻ đã quan tâm nhiệt tình về hóa học hơn.

As a student at the City of London School, Perkin became immersed in the study of chemistry.
Khi còn là một sinh viên tại Trường Thành phố London, Perkin đã dần đắm mình trong nghiên cứu về hóa học.

His talent and devotion to the subject were perceived by his teacher, Thomas Hall, who encouraged him to attend a series of lectures given by the eminent scientist Michael Faraday at the Royal Institution.
Tài năng và sự cống hiến của ông cho môn học này đã được công nhận bởi giáo viên của ông, Thomas Hall, người khuyến khích ông tham dự một loạt các bài giảng được đưa ra bởi nhà khoa học nổi tiếng Michael Faraday tại Viện Hoàng gia.


Those speeches fired the young chemist’s enthusiasm further, and he later went on to attend the Royal College of Chemistry, which he succeeded in entering in 1853, at the age of 15.
Những bài phát biểu đó đã kích thích sự nhiệt tình của nhà nghiên cứu trẻ, và sau đó ông tiếp tục theo học tại Đại học Hóa học Hoàng gia, nơi mà ông đã thành công trong việc đăng kí vào năm 1853, ở tuổi 15.


At the time of Perkin’s enrolment, the Royal College of Chemistry was headed by the noted German chemist August Wilhelm Hofmann.
Vào thời điểm ghi danh của Perkin, Trường Cao đẳng Hóa học Hoàng gia được đứng đầu bởi nhà hóa học nổi tiếng người Đức August Wilhelm Hofmann.

Perkin’s scientific gifts soon caught Hofmann’s attention and, within two years, he became Hofmann’s youngest assistant.
Tài năng về khoa học của Perkin nhanh chóng thu hút sự chú ý của Hofmann, và trong vòng hai năm, ông trở thành trợ lý trẻ nhất của Hofmann.

Not long after that, Perkin made the scientific breakthrough that would bring him both fame and fortune.
Không lâu sau đó Perkin đã tạo ra những đột phá khoa học mà mang lại cho ông cả danh vọng và tiền bạc.


At the time, quinine was the only viable medical treatment for malaria.
Vào thời điểm đó, thuốc quinine là thuốc điều trị y khoa hữu hiệu trị bệnh sốt rét.

The drug is derived from the bark of the cinchona tree, native to South America, and by 1856 demand for the drug was surpassing the available supply.
Thuốc có nguồn gốc từ vỏ cây cinchona, có nguồn gốc ở Nam Mỹ, và vào năm 1856 nhu cầu về thuốc đã vượt quá nguồn cung hiện có.

Thus, when Hofmann made some passing comments about the desirability of a synthetic substitute for quinine, it was unsurprising that his star pupil was moved to take up the challenge.
Vì vậy, khi Hofmann đưa ra một số nhận xét về việc mong muốn của một chất thay thế tổng hợp cho quinin, không có gì đáng ngạc nhiên khi học trò ngôi sao của ông ta đã chấp nhận thử thách này.

During his vacation in 1856, Perkin spent his time in the laboratory on the top floor of his family’s house.
Trong kỳ nghỉ của mình năm 1856, Perkin đã dành thời gian trong phòng thí nghiệm ở tầng trên cùng trong ngôi nhà của gia đình ông.

He was attempting to manufacture quinine from aniline, an inexpensive and readily available coal tar waste product.
Ông đã cố gắng sản xuất quinine từ aniline, một sản phẩm chất thải than đá rẻ tiền và sẵn có.

Despite his best efforts, however, he did not end up with quinine.
Tuy nhiên, dù đã nỗ lực hết mình, ông đã không thành công điều chế quinin.

Instead, he produced a mysterious dark sludge.
Thay vào đó, ông đã sản xuất một chất bùn đen bí ẩn.

Luckily, Perkin’s scientific training and nature prompted him to investigate the substance further.
May mắn thay, do được huấn luyện và tài năng bẩm sinh về khoa học đã thúc đẩy Perkin nghiên cứu thêm về chất này.

Incorporating potassium dichromate and alcohol into the aniline at various stages of the experimental process, he finally produced a deep purple solution.
Kết hợp kali diicat và cồn vào aniline ở các giai đoạn khác nhau của quá trình thí nghiệm, cuối cùng ông đã tạo ra một dung dịch màu tím đậm.

And, proving the truth of the famous scientist Louis Pasteur’s words ‘chance favours only the prepared mind’, Perkin saw the potential of his unexpected find.
Và, chứng minh sự thật về những lời của nhà khoa học nổi tiếng Louis Pasteur: "Cơ hội chỉ tạo thuận lợi cho tâm trí đã chuẩn bị sẵn sàng", Perkin đã nhìn thấy tiềm năng về khám phá bất ngờ này của mình.

Historically, textile dyes were made from such natural sources as plants and animal excretions.
Về mặt lịch sử, thuốc nhuộm được làm từ các nguồn tự nhiên là các chất bài tiết của động vật và thực vật.

Some of these, such as the glandular mucus of snails, were difficult to obtain and outrageously expensive.
Một số trong số này, chẳng hạn như chất nhầy tuyến hạch của ốc sên, rất khó kiếm và cực kì tốn kém.

Indeed, the purple colour extracted from a snail was once so costly that in society at the time only the rich could afford it.
Thật vậy, màu tím chiết xuất từ ​​ốc sên đã từng tốn kém đến mức mà trong xã hội vào thời đó chỉ có người giàu có đủ khả năng chi trả.

Further, natural dyes tended to be muddy in hue and fade quickly.
Hơn nữa, thuốc nhuộm tự nhiên có xu hướng bị xỉn màu và bị phai nhanh chóng. .

It was against this backdrop that Perkin’s discovery was made.
Nó đã chống lại nền tảng mà phát hiện của Perkin đã làm được.

Perkin quickly grasped that his purple solution could be used to colour fabric, thus making it the world’s first synthetic dye.
Perkin nhanh chóng hiểu rằng cái dung dịch màu tím đã được sử dụng cho vải màu, do đó khiến nó thành thuốc nhuộm tổng hợp đầu tiên trên thế giới.

Realising the importance of this breakthrough, he lost no time in patenting it.
Nhận thức được tầm quan trọng của bước đột phá này, ông đã không mất thời gian để được cấp bằng sáng chế.

But perhaps the most fascinating of all Perkin’s reactions to his find was his nearly instant recognition that the new dye had commercial possibilities.
Nhưng có thể điều thú vị nhất trong tất cả những phản ứng của Perkin đối với phát hiện của ông là việc gần như ngay lập tức ông nhận ra rằng thuốc nhuộm mới có khả năng sinh lời.

Perkin originally named his dye Tyrian Purple, but it later became commonly known as mauve (from the French for the plant used to make the colour violet).
Perkin đã đặt tên cho thuốc nhuộm của ông một cách thông thường là Tyrian Purple, nhưng sau đó nó đã được biết đến nhiều như là màu cẩm quỳ (từ này có nguồn gốc từ tiếng Pháp chỉ loài thực vật tạo ra màu tím).

He asked advice of Scottish dye works owner Robert Pullar, who assured him that manufacturing the dye would be well worth it if the colour remained fast (would not fade) and the cost was relatively low.
Ông ấy đã xin lời khuyên của một ông chủ làm về thuốc nhuộm người Scotland tên là Robert Pullar, người đã đảm bảo với ông ấy rằng việc sản xuất thuốc nhuộm sẽ rất đáng để làm nếu như màu sắc giữ được lâu (tức không phai) và giá thành tương đối thấp.

Tidal power: Năng lượng thuỷ triều



Các tua bin dưới biển dùng để sản xuất điện từ thủy triều đã trở thành một nguồn năng lượng tái chế quan trọng cho nước Anh.
Undersea turbines which produce electricity from the tides are set to become an important source of renewable energy for Britain.

Vẫn còn quá sớm để dự đoán mức độ ảnh hưởng của dạng năng lượng này nhưng tất cả các dấu hiệu cho thấy chúng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong tương lai.
It is still too early to predict the extent of the impact they may have, but all the signs are that they will play a significant role in the future.

A

Hoạt động với nguyên tắc tương tự như tua-bin gió, năng lượng trong tuabin biển có được đến từ các dòng thủy triều với các lưỡi trên tua bin tương tự như cánh quạt tàu, nhưng không giống như gió, thủy triều có thể dự đoán được và nguồn tạo ra năng lượng này hầu như không đổi.
Operating on the same principle as wind turbines, the power in sea turbines comes from tidal currents which turn blades similar to ships’ propellers, but, unlike wind, the tides are predictable and the power input is constant.

Công nghệ này giúp nước Anh có thể tự tức hơn về mảng năng lượng tái tạo và giảm lượng khí thải carbon dioxide tốt hơn.
The technology raises the prospect of Britain becoming self-sufficient in renewable energy and drastically reducing its carbon dioxide emissions.

Nếu thủy triều, gió và năng lượng sóng đều được phát triển thì Anh sẽ có thể không cần dùng gas, than và nhà máy điện hạt nhân nữa mà còn có thể xuất khẩu năng lượng tái tạo cho các nước châu u khác.
If tide, wind and wave power are all developed, Britain would be able to close gas, coal and nuclear power plants and export renewable power to other parts of Europe.

Không giống như năng lượng gió, mà trước đây Anh đã từng phát triển và sau đó bỏ rơi nó trong 20 năm để rồi người Hà Lan biến nó trở thành một ngành công nghiệp lớn thì các tuabin dưới biển có thể trở thành một nguồn thu xuất khẩu lớn cho các đảo quốc như Nhật Bản và New Zealand.
Unlike wind power, which Britain originally developed and then abandoned for 20 years allowing the Dutch to make it a major industry, undersea turbines could become a big export earner to island nations such as Japan and New Zealand.

B

Những nơi có hải triều đều được xác định là sẽ sản xuất một phần sáu hoặc nhiều năng lượng của Vương quốc Anh với giá cả cạnh tranh bằng những tuabin khí hiện đại và rẻ hơn năng lượng trong ngành công nghiệp hạt nhân đã suy yếu.
Tidal sites have already been identified that will produce one sixth or more of the UK’s power - and at prices competitive with modern gas turbines and undercutting those of the already ailing nuclear industry.

Chỉ một nơi là Pentland Firth, ở giữa Orkney và đất liền Scotland, là có thể sản xuất 10% sản lượng điện của cả nước với các bãi ngầm gắn các tuabin dưới biển, và một nơi nữa ở Alderney trong quần đảo Channel có sản lượng gấp ba lần so với nhà máy hạt nhân 1,200 MW mới nhất và lớn nhất nước Anh Sizewell B, ở Suffolk.
One site alone, the Pentland Firth, between Orkney and mainland Scotland, could produce 10% of the country’s electricity with banks of turbines under the sea, and another at Alderney in the Channel Islands three times the 1,200 megawatts of Britain’s largest and newest nuclear plant, Sizewell B, in Suffolk.

Các nơi khác cũng được xác định bao gồm kênh Bristol và bờ biển phía tây của Scotland, đặc biệt là kênh giữa Campbeltown và Bắc Ireland.
Other sites identified include the Bristol Channel and the west coast of Scotland, particularly the channel between Campbeltown and Northern Ireland.

C

Công việc thiết kế các cánh tua-bin mới và các trạm thuỷ triều được nhóm nghiên cứu năng lượng bền vững của Đại học Southampton thực hiện.
Work on designs for the new turbine blades and sites are well advanced at the University of Southampton’s sustainable energy research group.

Trạm đầu tiên dự kiến sẽ được cài đặt tắt tại Lynmouth ở Devon ngay để thử nghiệm công nghệ này trong một liên doanh được đồng tài trợ bởi các bộ phận Thương mại và Công nghiệp và Liên minh châu u.
The first station is expected to be installed off Lynmouth in Devon shortly to test the technology in a venture jointly funded by the department of Trade and Industry and the European Union.

AbuBakr Bahaj, phụ trách nghiên cứu Southampton, cho biết: Những triển vọng của ngành năng lượng từ các dòng thủy triều tốt hơn nhiều so với từ gió vì dòng nước có thể dự đoán và không đổi.
AbuBakr Bahaj, in charge of the Southampton research, said: The prospects for energy from tidal currents are far better than from wind because the flows of water are predictable and constant.

Các công nghệ xử lý môi trường nước muối khắc nghiệt dưới biển đã được phát triển trong ngành công nghiệp dầu khí ở Biển Bắc và được mọi người biết đến nhờ thiết kế lưỡi tuabin cho năng lượng gió và cánh quạt tàu.
The technology for dealing with the hostile saline environment under the sea has been developed in the North Sea oil industry and much is already known about turbine blade design, because of wind power and ship propellers.

Có một vài trục trặc về mặt kỹ thuật, nhưng trong 5-10 năm tới, chúng ta có thể cài đặt các trang trại tuabin dưới biển cho mục đích thương mại.
There are a few technical difficulties, but I believe in the next five to ten years we will be installing commercial marine turbine farms.

Southampton đã được trao tặng 215,000 bảng Anh trong hơn ba năm để phát triển các tua-bin và đang làm việc với một công ty về tuabin dưới biển, một công ty con cỉa năng lượng CNTT, về dự án ở Lynmouth.
Southampton has been awarded £215,000 over three years to develop the turbines and is working with Marine Current Turbines, a subsidiary of IT power, on the Lynmouth project.

Nghiên cứu của EU hiện nay đã xác định được 106 vị trí tiềm năng cho năng lượng thủy triều và 80% các nơi này nằm quanh các bờ biển của Anh.
EU research has now identified 106 potential sites for tidal power, 80% round the coasts of Britain.

Các nơi tốt nhất nằm giữa các đảo hoặc xung quanh các bờ biển lồi lõm, nơi có các dòng thủy triều mạnh.
The best sites are between islands or around heavily indented coasts where there are strong tidal currents.

D

Một lưỡi tuabin dưới biển chỉ cần có kích thước bằng một phần ba kích thước của một máy phát điện gió cũng để sản xuất điện gấp ba lần.
A marine turbine blade needs to be only one third of the size of a wind generator to produce three times as much power.

Các lưỡi này có đường kính khoảng 20 mét vì vậy khi dưới nước thì bắt buột khoảng 30 mét.
The blades will be about 20 metres in diameter, so around 30 metres of water is required.

Không giống như năng lượng gió, năng lượng thuỷ triều có vẻ không phải chịu sự ảnh hưởng của môi trường.
Unlike wind power, there are unlikely to be environmental objections.

Do các cánh quạt quay tương đối chậm nên hầu như không ảnh hưởng đến cá và các sinh vật khác sinh sống gần đó.
Fish and other creatures are thought unlikely to be at risk from the relatively slow-turning blades.

Mỗi tuabin sẽ được gắn vào một tháp kết nối vào lưới điện cung cấp điện quốc gia thông qua cáp dưới nước.
Each turbine will be mounted on a tower which will connect to the national power supply grid via underwater cables.

Các tháp này được gắn nhô ra khỏi mặt nước và được thắp sáng để cảnh báo các thuyền bè qua lại, và các trụ tháp này cũng được thiết kế để được nâng lên khỏi mặt nước nhằm bảo trì hay làm sạch rong biển ở các lưỡi tubia.
The towers will stick out of the water and be lit, to warn shipping, and also be designed to be lifted out of the water for maintenance and to clean seaweed from the blades.

E

Tiến sĩ Bahaj đã làm hầu hết các việc trên trạm Alderney, nơi có dòng chảy khá mạnh.
Dr Bahaj has done most work on the Alderney site, where there are powerful currents.

Một trang trại tuabin dưới biển có thể tạo năng lượng cần thiết cho cả quần đảo Channel và hầu hết các năng lượng này sẽ được đưa vào lưới điện của Pháp và được nhập khẩu trở lại Anh thông qua cáp dưới kênh đào Channel.
The single undersea turbine farm would produce far more power than needed for the Channel Islands and most would be fed into the French Grid and be re-imported into Britain via the cable under the Channel.

F

Một khó khăn về mặt kỹ thuật là việc sủi bong bóng do nơi áp suất thấp phía sau cánh tuabin quay gây ra.
One technical difficulty is cavitation, where low pressure behind a turning blade causes air bubbles.

Việc này có thể gây ra rung động và làm hư hại đến các cánh của tuabin.
These can cause vibration and damage the blades of the turbines.

Tiến sĩ Bahaj cho biết: "Chúng tôi phải thử nghiệm một số loại cánh lưỡi để tránh điều này xảy ra hoặc ít nhất là đảm bảo rằng nó không làm hỏng các tuabin hoặc làm giảm hiệu suất.
Dr Bahaj said: ‘We have to test a number of blade types to avoid this happening or at least make sure it does not damage the turbines or reduce performance.

Một mối quan tâm nhỏ khác là việc các mảnh vỡ trôi vào lưỡi cánh quay tuabin.
Another slight concern is submerged debris floating into the blades.

Đến nay chúng ta vẫn không biết là vấn đề này có thể nghiêm trọng đến mức nào.
So far we do not know how much of a problem it might be.

Chúng ta sẽ phải chế tạo các tuabin mạnh mẽ hơn vì biển là một môi trường rất khắc nghiệt, nhưng tất cả những gì chúng ta có thể làm đang có dấu hiệu tốt.
We will have to make the turbines robust because the sea is a hostile environment, but all the signs that we can do it are good.

The search for Extra-terrestrial Intelligence: Nổ lực tìm kiếm nền văn minh ngoài trái đất

 

A

Câu hỏi liệu chúng ta có đơn độc trong vũ trụ này hay không đã ám ảnh nhân loại trong nhiều thế kỷ qua nhưng bây giờ chúng ta đang tiến rất gần đến việc trả lời cho câu trả hỏi trên khi chúng ta tìm kiếm được các tín hiệu vô tuyến đến từ các nền văn minh khác.
The question of whether we are alone in the Universe has haunted humanity for centuries, but we may now stand poised on the brink of the answer to that question, as we search for radio signals from other intelligent civilisations.

Việc tìm kiếm này thường được biết đến với tên gọi tắt là SETI (viết tắt của các từ Tìm kiếm Trí thông minh ngoài trái đất] và đây được xem là một nhiệm vụ khó khăn.
This search, often known by the acronym SET! (Search for Extra-Terrestrial Intelligence), is a difficult one.

Mặc dù các nhóm nghiên cứu trên toàn thế giới đã được tìm kiếm liên tục trong ba thập kỷ qua nhưng chỉ đến thời điểm hiện tại chúng ta mới đạt đến trình độ công nghệ để có thể tìm kiếm tất cả các ngội sao lân cận để phát hiện ra bất kỳ dấu hiệu của sự sống.
Although groups around the world have been searching intermittently for three decades, it is only now that we have reached the level of technology where we can make a determined attempt to search all nearby stars for any sign of life.

Lý do chính cho việc tìm kiếm này cơ bản là do tính tò mò - sự tò mò về thế giới tự nhiên đã dẫn dắt tất cả ngành thuần khoa học.
The primary reason for the search is basic curiosity - the same curiosity about the natural world that drives all pure science.

Chúng ta muốn biết liệu chúng ta có đang ở một mình trong vũ trụ hay không.
We want to know whether we are alone in the Universe.

Chúng ta muốn biết liệu sự sống chỉ phát triển theo hướng tự nhiên nếu có điều kiện thích hợp hay phải có thứ gì đó rất đặc biệt để Trái đất có thể nuôi dưỡng sự đa dạng của các loài mà chúng ta thấy xung quanh trên hành tinh xanh này.
We want to know whether life evolves naturally if given the right conditions, or whether there is something very special about the Earth to have fostered the variety of life forms that we see around us on the planet.

Việc phát hiện đơn giản của một tín hiệu radio sẽ đủ trả lời tất cả các câu hỏi cơ bản nhất này.
The simple detection of a radio signal will be sufficient to answer this most basic of all questions.

Với cách nghĩ này thì tổ chứ SETI sẽ là một mắt xích khác trong bộ máy của thuần khoa học thuần túy để giúp chúng ta tiếp tục mở mang chân trời kiến thức.
In this sense, SETI is another cog in the machinery of pure science which is continually pushing out the horizon of our knowledge.

Tuy nhiên, có những lý do khác giải thích cho việc quan tâm đến sự sống tồn tại ở những nơi khác trong vũ trụ.
However, there are other reasons for being interested in whether life exists elsewhere.

Ví dụ, chúng ta đã có nền văn minh trên trái đất này chỉ vài nghìn năm nhưng các mối đe dọa của chiến tranh hạt nhân và ô nhiễm trong vài thập kỷ gần đây đã cho chúng ta thấy rằng sự sống còn của chúng ta có thể sẽ rất mong manh.
For example, we have had civilisation on Earth for perhaps only a few thousand years, and the threats of nuclear war and pollution over the last few decades have told us that our survival may be tenuous.

Liệu chúng ta có kéo dài nền văn minh này thêm hai ngàn năm hay chúng ta sẽ bị tự đào thải bởi chính mình? Vì sự sống trên trái đất như chúng ta là khoảng vài tỷ năm nên chúng ta có thể hy vọng rằng nếu có nền văn minh nào khác tồn tại trong thiên hà của chúng ta thì tuổi của chúng sẽ nằm trong khoảng từ số đến đến vài tỷ năm.
Will we last another two thousand years or will we wipe ourselves out? Since the lifetime of a planet like ours is several billion years, we can expect that, if other civilisations do survive in our galaxy, their ages will range from zero to several billion years.

Vì vậy bất kỳ nền văn minh khác mà chúng tôi nghe được có thể sẽ có tuổi trung bình lớn hơn trái đất của chúng ta rất nhiều.
Thus any other civilisation that we hear from is likely to be far older, on average, than ourselves.

Những tồn tại đơn thuần của một nền văn minh như vậy sẽ cho chúng ta biết rằng sự tồn tại lâu dài là có thể, và cho chúng tôi nhiều cơ hội để lạc quan.
The mere existence of such a civilisation will tell us that long-term survival is possible, and gives us some cause for optimism.

Thậm chí đó còn có thể là nền văn minh lâu đời hơn nhưng có khả năng và kinh nghiệm trong việc đối phó với các mối đe dọa đến sự sống còn như chiến tranh hạt nhân và ô nhiễm toàn cầu hay các mối đe dọa khác mà chúng ta chưa phát hiện ra.
It is even possible that the older civilisation may pass on the benefits of their experience in dealing with threats to survival such as nuclear war and global pollution, and other threats that we haven’t yet discovered.

B

Trong lúc tranh luận câu hỏi là liệu chúng ta có là duy nhất trong vũ trụ hay không thì hầu hết các nhà khoa học ở viện SETI đều áp dụng hai nguyên tắc cơ bản.
In discussing whether we are alone, most SETI scientists adopt two ground rules.

Thứ nhất họ thường bỏ qua các chứng cứ từ hội các vật thể bay không thể xác định UFQ vì hầu hết các nhà khoa học không xem xét các bằng chứng một cách nghiêm túc (mặc dù nó cũng rất quan trọng để có thể trao đổi cởi mở hơn trong trường hợp có bất kỳ bằng chứng thực sự thuyết phục nào được nêu ra trong tương lai).
First, UFQs (Unidentified Flying Objects) are generally ignored since most scientists don’t consider the evidence for them to be strong enough to bear serious consideration (although it is also important to keep an open mind in case any really convincing evidence emerges in the future).

Thứ hai, chúng ta có một giả định khá bảo thủ là tìm kiếm một hình thức sống khác tương đối tốt như của trái đất chúng ta vì nếu chúng ta tìm được một sự sống khác nhau hoàn toàn với chúng ta hiện tại thì liệu chúng ta có thể giao tiếp với nó được hay không.
Second, we make a very conservative assumption that we are looking for a life form that is pretty well like us, since if it differs radically from us we may well not recognise it as a life form, quite apart from whether we are able to communicate with it.

Nói cách khác, các dạng sống mà chúng ta đang tìm kiếm có thể có hai đầu màu xanh lá cây và bảy ngón tay, nhưng nó sẽ vẫn giống như chúng ta, nó có thể giao tiếp với đồng loại của mình, quan tâm đến vũ trụ, sống trên một hành tinh quay xung quanh một ngôi sao giống như mặt trời, và có lẽ có một chất hóa học dù là hạn chế nhất như chúng ta dựa trên carbon và nước.
In other words, the life form we are looking for may well have two green heads and seven fingers, but it will nevertheless resemble us in that it should communicate with its fellows, be interested in the Universe, live on a planet orbiting a star like our Sun, and perhaps most restrictively, have a chemistry, like us, based on carbon and water.

C

Ngay cả khi chúng ta giả định như vậy thì sự hiểu biết của chúng ta về các dạng sống khác vẫn còn rất hạn chế.
Even when we make these assumptions, our understanding of other life forms is still severely limited.

Ví dụ, chúng ta thậm chí còn không biết có bao nhiêu ngôi sao có hành tinh, và chúng tôi chắc chắn không biết làm thế nào để một sự sống hình thành một cách tự nhiên với điều kiện thích hợp.
We do not even know, for example, how many stars have planets, and we certainly do not know how likely it is that life will arise naturally, given the right conditions.

Tuy nhiên, khi chúng ta nhìn vào 100 tỷ ngôi sao trong thiên hà của chúng ta (Milky Way), và 100 tỷ thiên hà trong vũ trụ mà chúng ta có thể quan sát được thì việc có ít nhất một trong những hành tinh này mà không có bất kỳ một hình thức sự sống trên nó thì thật là kỳ lạ; trên thực tế, khả năng dự đoán tốt nhất chúng ta có thể làm là sử dụng ít nhiều những thứ mà chúng ta biết về các điều kiện của sự sống dựa trên carbon, sẽ giúp chúng ta ước tính rằng có lẽ khoảng một trong 100,000 ngôi sao là có khả năng có một hành tinh sống quay quanh nó.
However, when we look at the 100 billion stars in our galaxy (the Milky Way), and 100 billion galaxies in the observable Universe, it seems inconceivable that at least one of these planets does not have a life form on it; in fact, the best educated guess we can make, using the little that we do know about the conditions for carbon-based life, leads us to estimate that perhaps one in 100,000 stars might have a life-bearing planet orbiting it.

Điều đó có nghĩa là hàng xóm gần nhất của chúng ta có lẽ cách chúng ta khoảng 100 năm ánh sáng và đó là gần như là cánh cửa tiếp theo để nghiên cứu về thiên văn học.
That means that our nearest neighbours are perhaps 100 light years away, which is almost next door in astronomical terms.

D

Một nền văn minh ngoài hành tinh có thể lựa chọn nhiều cách khác nhau để gửi thông tin qua các thiên hà, nhưng những dạng gửi thông tin này cần rất nhiều năng lượng, nếu không sẽ bị suy giảm nghiêm trọng trong khi vượt qua khoảng cách lớn giữa các thiên hà.
An alien civilisation could choose many different ways of sending information across the galaxy, but many of these either require too much energy, or else are severely attenuated while traversing the vast distances across the galaxy.

Người ta đã chỉ ra rằng, đối với một lượng năng lượng nhất định được truyền đi thì sóng vô tuyến trong dải tần số 1000-3000 MHz là có khả năng đi xa nhất, và vì vậy tất cả các tìm kiếm cho đến nay đều tập trung vào việc tìm kiếm các sóng vô tuyến trong dải tần số này.
It turns out that, for a given amount of transmitted power, radio waves in the frequency range 1000 to 3000 MHz travel the greatest distance, and so all searches to date have concentrated on looking for radio waves in this frequency range.

Vì vậy, đến nay có rất nhiều nhóm khác nhau trên thế giới, kể cả Úc đã bắt đầu công cuộc tìm kiếm bằng cách sử dụng kính thiên văn vô tuyến ở Parkes, New South Wales.
So far there have been a number of searches by various groups around the world, including Australian searches using the radio telescope at Parkes, New South Wales.

Nhưng cho đến nay họ vẫn không phát hiện được bất kỳ ngôi sao nào có khả năng tồn tại sự sống từ vài trăm ngôi sao mà họ đã nghiên cứu.
Until now there have not been any detections from the few hundred stars which have been searched.

Quy mô của việc tìm kiếm này đã được tăng lên đáng kể từ năm 1992, khi Quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu cho NASA 10 triệu đô mỗi năm trong vòng mười năm để tiến hành tìm kiếm kỹ lưỡng cho cuộc sống ngoài Trái đất.
The scale of the searches has been increased dramatically since 1992, when the US Congress voted NASA $10 million per year for ten years to conduct a thorough search for extra-terrestrial life.

Phần lớn số tiền trong dự án này đang được chi tiêu vào việc phát triển các phần cứng đặc biệt cần thiết để tìm kiếm nhiều tần số cùng một lúc.
Much of the money in this project is being spent on developing the special hardware needed to search many frequencies at once.

Dự án gồm hai phần.
The project has two parts.

Một phần là tìm kiếm có mục tiêu sử dụng các kính thiên văn vô tuyến lớn nhất thế giới, các kính thiên văn của Mỹ đang sử dụng tại Arecibo, Puerto Rico và các kính thiên văn Pháp tại Nancy ở Pháp.
One part is a targeted search using the world’s largest radio telescopes, the American-operated telescope in Arecibo, Puerto Rico and the French telescope in Nancy in France.

Đây là một phần của dự án tìm kiếm các khu vực gần 1000 ngôi sao có khả năng với độ nhạy cao cho tín hiệu trong dải tần số 1000-3000 MHz.
This part of the project is searching the nearest 1000 likely stars with high sensitivity for signals in the frequency range 1000 to 3000 MHz.

Các phần khác của dự án là một cuộc tìm kiếm vô hướng để giám sát tất cả không gian với độ nhạy thấp hơn, sử dụng ăng-ten nhỏ hơn của Deep Space Network NASA.
The other part of the project is an undirected search which is monitoring all of space with a lower sensitivity, using the smaller antennas of NASA’s Deep Space Network.

E

Đã có một sự tranh luận đáng kể về cách chúng ta sẽ phản ứng như thế nào nếu chúng ta phát hiện một tín hiệu từ một nền văn minh ngoài hành tinh.
There is considerable debate over how we should react if we detect a signal from an alien civilisation.

Mọi người đều đồng ý rằng chúng ta không nên trả lời ngay lập tức.
Everybody agrees that we should not reply immediately.

Ngoài tính phi thực tế của việc gửi câu trả lời trên một khoảng cách lớn như vậy trong thời gian ngắn thì việc làm này phát sinh một loạt các câu hỏi về đạo đức mà sẽ phải được giải quyết bởi các cộng đồng toàn cầu trước khi bất kỳ câu trả lời nào có thể được gửi đi.
Quite apart from the impracticality of sending a reply over such large distances at short notice, it raises a host of ethical questions that would have to be addressed by the global community before any reply could be sent.

Liệu loài người sẽ phải đối mặt với những cú sốc văn hóa khi phải đối mặt với một nền văn minh cao và già hơn rất nhiều hay không? May mắn thay là việc này không cấp thiết lắm.
Would the human race face the culture shock if faced with a superior and much older civilisation? Luckily, there is no urgency about this.

Các ngôi sao được tìm kiếm cách chúng ta hàng trăm năm ánh sáng nên phải mất hàng trăm năm để tín hiệu của họ tiếp cận được với chúng ta, và thêm vài trăm năm nữa để câu trả lời của chúng ta có thể tiếp cận họ.
The stars being searched are hundreds of light years away, so it takes hundreds of years for their signal to reach us, and a further few hundred years for our reply to reach them.

Nên nếu có một sự chậm trễ vài năm, hay nhiều thập kỷ thì cũng không quan trọng, trong khi loài người vẫn còn đang tranh luận về câu hỏi để trả lời, và có lẽ họ nên soạn thảo câu trả lời một cách cẩn thận trước khi gửi đi.
It’s not important, then, if there’s a delay of a few years, or decades, while the human race debates the question of whether to reply, and perhaps carefully drafts a reply.

The development of museums: Sự phát triển của viện bảo tàng

 

A


The conviction that historical relics provide infallible testimony about past is rooted in the nineteenth and early twentieth centuries, when science was regarded as objective and value free.

Niềm tin mãnh liệt rằng các di tích lịch sử cung cấp những chứng cứ không thể sai về quá khứ được bắt nguồn từ thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, khi khoa học được coi là mục tiêu và giá trị tự do.

 

As one writer observes: ‘Although it is now evident that artefacts as easily altered as chronicles, public faith in their veracity endures: a tangible relic seems ipso facto real.’

Như một nhà văn đã quan sát cho biết: ‘Mặc dù bây giờ rõ ràng rằng các đồ tạo tác như biên niên sử, những niềm tin công chúng trong vào tính xác thực của những sự chịu đựng của họ: những dấu tích rõ ràng có vẻ như ipso facto là thật.

 

Such conviction was, until recently, reflected in museum displays.

Niềm tin mãnh liệt như vậy, cho đến gần đây, được phản ánh trong các trưng bày của bảo tàng.

 

Museums used to look  - and some still do – much like storage rooms of objects packed together in showcases: good for scholars who want study the subtle differences in design, but not for the ordinary visitor, to whom it all looked alike.

Như một số vẫn làm thì những bảo tàng đã từng được xem như là những phòng lưu trữ các vật thể được đóng gói cùng nhau trong các cuộc trưng bày: việc này tốt cho các học giả - những người muốn nghiên cứu sự khác biệt tinh tế trong các thiết kế, nhưng không cho những người thăm bình thường khi chúng ta xem tất cả chúng đều giống như nhau.

 

Similarly, the information accompanying the objects often made little sense to the lay visitor.

Một cách tương tự, những thông tin đi cùng các đồ vật thường được cho  là có rất ít ý nghĩa cho những người thăm không chuyên môn.

 

The content and format of explations dated back to a time when the museum was the exclusive domain of the scientific researcher.

Việc giải thích về nội dung và hình thức chỉ thịnh thành vào thời khi Viện bảo tàng được xem là phạm vi độc quyền của các nhà nghiên cứu khoa học.  

 B

Recently, however, attitudes toward history and the way it should be presented have altered.

Tuy nhiên, mới đây, những thái độ đối với lịch sử và cách thức nó được trình bày đã thay đổi.

 

The key word in heritage display is now ‘experience’, the more exciting the better and, if possible, involving all the senses.

Từ khóa trong sự trưng bày các di sản này bây giờ là ‘trải nghiệm’, ngày càng thú vị và tốt đẹp hơn, nếu có thể, liên quan đến tất cả các giác quan.

 

Good examples of this approach in the UK are the Jorvik Centre in York; the National Museum of Photography, Film and Television in Bradford; and the Imperial War Museum in London.

Ví dụ điển hình của phương pháp này ở Anh là trung tâm Jorvik tại York; Bảo tàng Nhiếp ảnh Quốc gia, Phim và Truyền hình ở Bradford; Bảo tàng Chiến tranh Đế quốc ở London.

 

In the UK the trend emerged much earlier: Williamsburg has been a prototype for many heritage developments in other parts of the world.

Tại Anh xu hướng này nổi lên sớm hơn nhiều: Williamsburg là hình mẫu đầu tiên cho nhiều phát triển di sản trong các phần của thế giới.

 

No one can predict where the process will end.

Không ai có thể dự đoán nơi nào quá trình sẽ kết thúc.

 

On so-called heritage sites the re-enactment of historical events is increasingly popular, and computers will soon provide virtual reality experiences, which will present visitors with a vivid image of the period of their choice, in which they themselves can act as if part of the historical environment.

Trên cái gọi là khu di tích ban hành lại các sự kiện lịch sử phổ biến nhanh chóng, và các máy tính sẽ nhanh chóng cung cấp các trải nghiệm thực tế, nó sẽ trình bày cho người tham quan với những hình ảnh sống động của các giai đoạn lựa chọn của họ, nơi mà bản thân họ có thể hành động như một phần của môi trường lịch sử.

 

Such developments have been criticized as an intolerable vulgarisation, but the success of many historical theme parks and similar locations suggests that the majority of the public does not share this opinion.

Những sự phát triển như vậy đã bị chỉ trích như một sự phổ biến hóa không thể chấp nhận được, nhưng thành công của nhiều công viên chủ đề lịch sử và những địa điểm tương tự cho thấy rằng việc phần lớn quần chúng không đồng tình với ý kiến này.

 C

In a related development, the sharp distinction between museum and heritage sites on the one hand, and theme parks on the other, gradually evaporating.

Trong một phát triển có liên quan, một mặt sự khác biệt rõ rệt giữa bảo tàng và khu di tích và một mặt khác là các công viên theo chủ đề, đang dần tan biến.

 

They already borrow ideas and concepts from one another.

Họ đã mượn ý tưởng và khái niệm từ một nơi khác.

 

For example, museums have adopted story lines for exhibitions, sites have accepted ‘theming’ relevant tool, and theme parks are moving towards more authenticity and research-based presentations.

Ví dụ, các bảo tàng đã đã thông qua dãy các câu chuyện từ cuộc triển lãm, các địa điểm đã chấp nhận ‘theming’ như một công cụ thích hợp, và các công viên theo chủ đề đang chuyển hướng tới những bài thuyết trình dựa trên nghiên cứu và tính xác thực.

 

In zoos, animals are no longer kept in cages but in great spaces, either in the open air or enormous greenhouses, such as the jungle and desert environments in Burgers’ Zoo in Holland.

Trong các vườn thú, các động vật không bị giữ lâu hơn trong lồng, mà trong không gian tuyệt vời, ở ngoài trời hay trong những nhà kính khổng lồ, như môi trường rừng nhiệt đới và sa mạc tại các vườn thú Burger tại Hà Lan.

 

This practical trend is regarded as one of the major developments in the presentation of natural history in the twentieth century.

Xu hướng thực tế được xem là một trong những phát triển quan trọng trong bài trình bày về lịch sử thiên nhiên trong thế kỉ 20.

 D

Theme parks are underdoing other changes, too, as they try to present more serious social and cultural issues, and move away from fantasy.

Cũng như vậy, những công viên theo chủ đề đang trải qua những thay đổi khác, trong nỗ lực trình bày các vấn đề nghiêm trọng về văn hóa và xã hội, và rời xa khỏi trí tưởng tượng.

 

This development is a response to market forces and, although museums and heritage sites have a special, rather distinct, role to fulfil, they are also operating in a very competitive environment, where visitors make choices on how and where to spend their free time.

Sự phát triển này là một phản ứng tới sức mạnh thị trường và, mặc dù các bảo tàng và khu di tích có một sựu đặc biệt, đúng hơn là sựu khác biệt, có vai trò thực hiện, chúng cũng đang hoạt động trong một môi trường cạnh tranh khắc nghiệt, nơi mà những người tham quan tạo ra những lựa chọn về cách thức và địa điểm để dùng thời gian rãnh của họ.   

 

Heritage and museum experts do not have to invent stories and recreate historical environments to attract their visitors: their assets are already in place.

Những chuyên gia về di sản và bảo tàng không phải phát minh ra những câu chuyện và tái tạo những môi trường lịch sử để thu hút khách tham quan của họ: các tài sản của họ đã đặt tại đó.

 

However, exhibits must both based on artefacts and facts as we know them and attractively presented.

Tuy nhiên, các vật trưng bày đều phải dựa vào các vật tạo tác và sự thực như chúng ta biết về chúng và trình bày một cách thu hút.

 

Those who are professionally engaged in the art of interpreting history are thus, in a difficult position, as they must steer a narrow course between the demands of ‘evidence’ and ‘attractiveness’, especially given the increasing need in the heritage industry for income-generating activities.

Do đó, những người chuyên nghiệp đã thành công trong nghệ thuật của lịch sử diễn giải, trong một hoàn cảnh khó khăn, họ phải hướng đến một hướng đi hạn hẹp giữa những yêu cầu của ‘bằng chứng’ và ‘sự thu hút’, đặc biệt cho các nhu cầu ngày càng tăng cần thiết trong ngành công nghiệp di sản cho các hoạt động tạo doanh thu.

 E

It could be claimed that in order to make everything in heritage more ‘real’, historical accuracy must be increasingly altered.

Người ta có thể cho rằng để tạo nên mọi thứ trong di sản thực tế hơn thì sự chính xác của lịch sử phải được thay đổi một cách nhanh chóng.

 

For example, Pithecanthropus erectus is depicted in an Indonesian museum with Malay facial features, because this corresponds to public perceptions.

Ví dụ, Pithecanthropus erectus được mô tả trong một bảo tàng Indonesia với những đặc điểm khuôn mặt của người Malay, bởi vì điều này tương ứng với nhận thức của công chúng.  

 

Similarly, in the Museum of Natural History in Washington, Neanderthal man is shown making a dominant gesture to his wife.

Một cách tương tự, trong Bảo tàng Lịch sử Thiên nhiên tại Washington, người đàn ông Nepan được hiển thị với một cử chỉ ưu thế tới vợ của ông ta.

 

Such presentations tell us more about contemporary perceptions of the world than about our ancestors.

Những cách trình bày như vậy nói cho chúng ta nhiều hơn về những nhận thức đương thời của thế giới hơn là liên quan đến tổ tiên của chúng ta.

 

There is one compensation, however, for the professionals who make these interpretations: if they did not provide the interpretation, visitors would do it for themselves, based on their own ideas, misconceptions and prejudices.

Tuy nhiên, có một sự đền bù cho các chuyên gia tạo nên những những giải thích đó là nếu họ không cung cấp các lời giải thích thì những người tham quan sẽ phải tự làm, dựa trên những ý kiến riêng, những nhận thức sai lầm và những thành kiến của chính họ.

 

And no matter how exciting the result, it would contain a lot more bias than the presentations provided by experts.

Và dù như kết quả thú vị như thế nào, nó cũng sẽ chứa đựng nhiều thành kiến hơn những bài trình bày cung cấp bởi các chuyên gia.  

 F

Human bias is bias, but another source of bias in the representation of history has to do with the transitory nature of the materials themselves.

Khuynh con người là không thể tránh khỏi, nhưng những nguồn khuynh hướng khác trong những đại diện của lịch sử phải được thực hiện với những nguồn thiên nhiên tạm thời của bản thân chất liệu của chúng.

 

The simple fact is that not everything from history survives the historical process.

Sự thực đơn giản là không phải mọi thứ từ lịch sử có thể cứu sống quá trình lịch sử.

 

Castles, palaces and cathedrals have a longer lifespan than the dwellings of ordinary people.

Những lâu đài, cung điện, và nhà thờ có tuổi thọ lâu hơn là các ngôi nhà của những người bình thường.

 

The same applies to the furnishings and other contents of the premises.

Điều tương tự cũng áp dụng cho các đồ đạc và các nội dung khác của các tòa nhà.

 

In a town like Leyden in Holland, which in the seventeenth century was occupied by approximately the same number of inhabitants as today, people lived within the walled town, an area more than five times smaller than modern Leyden.

Trong tòa nhà như Leyden ở Hà Lan, trong thế kỉ 17 đã được sử dụng bởi số lượng dân số xấp sỉ như ngày nay, những người đã sống trong thị trấn có tường bao quanh, một diện tích nhỏ hơn 5 lần Leyden hiện đại.

 

In most of the houses several families lived together in circumstances beyond our imagination.

Trong hầu hết các ngôi nhà một vài gia đình đã sống cùng nhau trong những hoàn cảnh ngoài sức tưởng tượng.

 

Yet in museums, fine period rooms give only an image of the lifestyle of the upper class of that era.

Tuy nhiên trong những bảo tàng, những phòng thời kì tốt chỉ cho chúng ta thấy hình ảnh của phong cách sống của tầng lớp thượng lưu trong thời kì đó.

 

No wonder that people who stroll around exhibitions are filled with nostalgia, the evidence in museums indicates that life was so much better in the past.

Không có gì ngạc nhiên rằng con người đi xung quanh các buổi triển lãm bị lấp đầy nỗi nhớ quê hương, chứng cứ này trong những bảo tàng ám chỉ rằng cuộc sống đã tốt hơn rất nhiều trong quá khứ.

 

This notion is induced by the bias in its representation in museums and heritage centers.

Khái niệm này đã gây ra bởi sự thiên vị trong việc thể hiện ở các bảo tàng và các trung tâm di sản.

NGỌC THU

ARTCANDY SHOP NGỌC THU -     Trên   bước   đường   THÀNH   CÔNG , không   có   dấu   chân   của   những   kẻ   LƯỜI   BIẾNG . ...