Tình yêu bắt đầu từ trong nhà – Mẹ Têrêsa Calcutta


Mẹ Têrêsa Calcutta luôn là một hình tượng đặc biệt trong lòng những người biết đến Mẹ. 

Mẹ đứng vào hàng ngũ các vĩ nhân, 

không phải vì các chiến công, hay tài năng đặc biệt, 

mà là sự bền bỉ, tận tuỵ hy sinh trong hơn 45 năm 

chăm sóc người nghèo, bệnh tật, 

trẻ mồ côi, người hấp hối.


Đây là bài diễn văn tràn ngập tình yêu thương của Mẹ 
tại lễ trao giải Nobel Hoà Bình.

Nobel Lecture 11 December, 1979
Diễn văn Nobel
11 tháng 12, 1979
As we have gathered here together to thank God for the Nobel Peace Prize I think it will be beautiful that we pray the prayer of St. Francis of Assisi which always surprises me very much – we pray this prayer every day after Holy Communion, because it is very fitting for each one of us, and I always wonder that 4-500 years ago as St. Francis of Assisi composed this prayer that they had the same difficulties that we have today, as we compose this prayer that fits very nicely for us also. I think some of you already have got it – so we will pray together.
Trong khi chúng ta tập hợp với nhau ở đây để cảm ơn Chúa về giải Nobel Hòa bình, tôi nghĩ thật là tuyệt vời để chúng ta cầu nguyện lời nguyện của Thánh Phanxicô Assisi, lời nguyện luôn làm tôi rất ngạc nhiên – chúng tôi cầu nguyện lời này mỗi ngày sau khi Rước Lễ, vì rất hợp cho mỗi người chúng tôi, và tôi luôn tự hỏi rằng 4-500 năm trước đây, khi Thánh Phanxicô Assisi lập lời cầu nguyện này người ta có những khó khăn như chúng ta có ngày hôm nay, như chúng ta lập lời cầu nguyện này cũng rất phù hợp với chúng ta. Tôi nghĩ một số bạn đã có bài nguyện rồi – vậy chúng ta sẽ cùng nhau cầu nguyện.
Let us thank God for the opportunity that we all have together today, for this gift of peace that reminds us that we have been created to live that peace, and Jesus became man to bring that good news to the poor. He being God became man in all things like us except sin, and he proclaimed very clearly that he had come to give the good news. The news was peace to all of good will and this is something that we all want – the peace of heart – and God loved the world so much that he gave his son – it was a giving – it is as much as if to say it hurt God to give, because he loved the world so much that he gave his son, and he gave him to Virgin Mary, and what did she do with him?
Chúng ta hãy cảm tạ ơn Chúa cho cơ hội mà tất cả chúng ta đã có cùng nhau hôm nay, cho món quà của hòa bình để nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta đã được tạo ra để sống hòa bình đó, và Chúa Giêsu đã trở thành người để đem tin mừng đến cho người nghèo. Ngài là Đức Chúa Trời đã trở thành con người với tất cả những gì giống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, và Ngài tuyên bố rất rõ ràng rằng Ngài đã đến để ban tin mừng. Tin mừng đó là hòa bình cho mọi người thiện tâm và đây là điều mà tất cả chúng ta đều muốn – sự bình an của tâm hồn – và Chúa yêu thương thế gian đến nỗi Ngài đã ban con trai của Ngài – là một sự hiến dâng – nhiều như thể nói là Chúa rất đau lòng để cho, vì Ngài yêu thương thế gian nhiều đến Ngài nỗi đã ban con trai của Ngài, và Ngài trao con cho Đức Mẹ Maria Đồng trinh, và Đức Mẹ đã làm gì với đứa con đó?
As soon as he came in her life – immediately she went in haste to give that good news, and as she came into the house of her cousin, the child – the unborn child – the child in the womb of Elizabeth, leapt with joy. He was that little unborn child, was the first messenger of peace. He recognised the Prince of Peace, he recognised that Christ has come to bring the good news for you and for me. And as if that was not enough – it was not enough to become a man – he died on the cross to show that greater love, and he died for you and for me and for that leper and for that man dying of hunger and that naked person lying in the street not only of Calcutta, but of Africa, and New York, and London, and Oslo – and insisted that we love one another as he loves each one of us. And we read that in the Gospel very clearly – love as I have loved you – as I love you – as the Father has loved me, I love you – and the harder the Father loved him, he gave him to us, and how much we love one another, we, too, must give each other until it hurts. It is not enough for us to say: I love God, but I do not love my neighbour. St. John says you are a liar if you say you love God and you don’t love your neighbour. How can you love God whom you do not see, if you do not love your neighbour whom you see, whom you touch, with whom you live. And so this is very important for us to realise that love, to be true, has to hurt. It hurt Jesus to love us, it hurt him. And to make sure we remember his great love he made himself the bread of life to satisfy our hunger for his love. Our hunger for God, because we have been created for that love. We have been created in his image. We have been created to love and be loved, and then he has become man to make it possible for us to love as he loved us. He makes himself the hungry one – the naked one – the homeless one – the sick one – the one in prison – the lonely one – the unwanted one – and he says: You did it to me. Hungry for our love, and this is the hunger of our poor people. This is the hunger that you and I must find, it may be in our own home.
Ngay sau khi đứa con đến với cuộc đời của bà – ngay lập tức bà đã ban bố tin vui đó, và khi bà vào ngôi nhà của người em họ, đứa bé – đứa bé chưa sinh ra – đứa bé trong bụng mẹ của Elizabeth, nhảy nhót với niềm vui. Đó là đứa bé chưa sinh ra, là sứ giả đầu tiên của hòa bình. Đứa bé đã nhận là Hoàng tử của Hòa bình, Ngài đã nhận ra rằng Đấng Cứu Thế đã đến để mang lại tin vui cho bạn và cho tôi. Và như thể đó là không đủ – trở thành một con người cũng chưa đủ – Ngài đã chết trên thánh giá để cho thấy tình yêu vĩ đại hơn, và Ngài đã chết cho bạn và cho tôi và cho người phong cùi đó và cho người chết vì đói đó và người trần truồng nằm trên đường phố đó, không những chỉ ở Calcutta, nhưng ở châu Phi, và New York và London, Oslo – và đòi hỏi rằng chúng ta yêu nhau như Ngài yêu mỗi người chúng ta. Và chúng ta đọc điều đó trong Phúc Âm g rất rõ ràng – yêu như Ta đã yêu con – như Ta yêu con – như Chúa Cha đã yêu Ta, Ta yêu con – và Chúa Cha yêu Ngài hơn bao nhiêu, Chúa Cha đã cống hiến Ngài cho chúng ta, và chúng ta yêu nhau bao nhiêu, chúng ta cũng phải yêu nhau cho đến khi đau đớn. Không đủ để chúng ta nói: Tôi yêu Chúa, nhưng tôi không yêu người láng giềng của tôi. Thánh John nói rằng bạn là một kẻ nói dối nếu bạn nói bạn yêu Chúa mà bạn không yêu người láng giềng của bạn. Làm sao mà bạn có thể yêu Chúa người mà bạn không nhìn thấy, nếu bạn không yêu người láng giềng người mà bạn nhìn thấy, người bạn tiếp xúc, người mà bạn cùng sống. Và vì vậy rất quan trọng đối với chúng ta để nhận ra rằng tình yêu, để thật sự có, phải là đau đớn. Giêsu chịu yêu chúng ta, điều đó làm Ngài đau đớn. Và để đảm bảo rằng chúng ta nhớ đến tình yêu tuyệt vời của Ngài, Ngài biến thành thức ăn của đời sống để thỏa mãn cơn đói của chúng ta đối với tình yêu của Ngài. Chúng ta đói khát Chúa, vì chúng ta được tạo ra cho tình yêu đó. Chúng ta được tạo ra trong hình ảnh của Chúa. Chúng ta được tạo ra để yêu và để được yêu, và Chúa đã trở thành người để giúp chúng ta có thể yêu như Ngài đã yêu chúng ta. Ngài biến thành người đói – người trần truồng – người không nhà – người bệnh hoạn – người trong tù – người cô đơn – người bị từ chối – và Ngài nói: Con đã chăm sóc ta. Đói cho tình yêu của chúng ta, và đây là sự đói khát của con người chúng ta. Đây là sự đói khát mà bạn và tôi phải tìm kiếm, nó có thể ngay trong nhà của chúng ta.
I never forget an opportunity I had in visiting a home where they had all these old parents of sons and daughters who had just put them in an institution and forgotten maybe. And I went there, and I saw in that home they had everything, beautiful things, but everybody was looking towards the door. And I did not see a single one with their smile on their face. And I turned to the Sister and I asked: How is that? How is it that the people they have everything here, why are they all looking towards the door, why are they not smiling? I am so used to see the smile on our people, even the dying one smile, and she said: This is nearly every day, they are expecting, they are hoping that a son or daughter will come to visit them. They are hurt because they are forgotten, and see – this is where love comes. That poverty comes right there in our own home, even neglect to love. Maybe in our own family we have somebody who is feeling lonely, who is feeling sick, who is feeling worried, and these are difficult days for everybody. Are we there, are we there to receive them, is the mother there to receive the child?
Tôi không bao giờ quên một dịp tôi đã viếng thăm một nhà nơi nhiều cha mẹ già của những người con trai và con gái bị con cái đưa vào viện dưỡng lão và có thể là bị bỏ quên. Và tôi đến đó, và tôi thấy trong nhà đó họ có tất cả mọi thứ, những thứ xinh đẹp, nhưng mọi người đều nhìn ra phía cánh cửa. Và tôi không thấy một người nào với nụ cười trên khuôn mặt của họ. Và tôi quay sang Chị và tôi hỏi: Làm sao thế? Sao mà người có tất cả ở đây, tại sao tất cả đều trông ra phía cánh cửa, tại sao họ không cười? Tôi quen nhìn thấy nụ cười của mọi người, thậm chí người sắp chết cũng cười, và Chị nói: Điều này hầu như mỗi ngày, họ đang mong đợi, họ đang hy vọng rằng những người con trai hay con gái sẽ đến thăm họ. Họ bị tổn thương bởi vì họ đang bị lãng quên, và nhìn xem – đây là nơi mà tình yêu đến. Sự nghèo đói đó đến ngay chính trong nhà của chúng ta, thậm chí bỏ bê tình yêu. Có lẽ ngay trong gia đình của chúng ta, chúng ta có người đang cảm thấy cô đơn, cảm thấy bệnh hoạn, cảm thấy lo lắng, và đây là những ngày khó khăn cho tất cả mọi người. Chúng ta có ở đó không, chúng ta có ở đó để đón nhận họ không có người mẹ nào hiện diện để nhận con mình?
I was surprised in the West to see so many young boys and girls given into drugs, and I tried to find out why – why is it like that, and the answer was: Because there is no one in the family to receive them. Father and mother are so busy they have no time. Young parents are in some institution and the child takes back to the street and gets involved in something. We are talking of peace. These are things that break peace, but I feel the greatest destroyer of peace today is abortion, because it is a direct war, a direct killing – direct murder by the mother herself. And we read in the Scripture, for God says very clearly: Even if a mother could forget her child – I will not forget you – I have carved you in the palm of my hand. We are carved in the palm of His hand, so close to Him that unborn child has been carved in the hand of God. And that is what strikes me most, the beginning of that sentence, that even if a mother could forget something impossible – but even if she could forget – I will not forget you. And today the greatest means – the greatest destroyer of peace is abortion. And we who are standing here – our parents wanted us. We would not be here if our parents would do that to us. Our children, we want them, we love them, but what of the millions. Many people are very, very concerned with the children in India, with the children in Africa where quite a number die, maybe of malnutrition, of hunger and so on, but millions are dying deliberately by the will of the mother. And this is what is the greatest destroyer of peace today. Because if a mother can kill her own child – what is left for me to kill you and you kill me – there is nothing between. And this I appeal in India, I appeal everywhere: Let us bring the child back, and this year being the child’s year: What have we done for the child? At the beginning of the year I told, I spoke everywhere and I said: Let us make this year that we make every single child born, and unborn, wanted. And today is the end of the year, have we really made the children wanted? I will give you something terrifying. We are fighting abortion by adoption, we have saved thousands of lives, we have sent words to all the clinics, to the hospitals, police stations – please don’t destroy the child, we will take the child. So every hour of the day and night it is always somebody, we have quite a number of unwedded mothers – tell them come, we will take care of you, we will take the child from you, and we will get a home for the child. And we have a tremendous demand from families who have no children, that is the blessing of God for us. And also, we are doing another thing which is very beautiful – we are teaching our beggars, our leprosy patients, our slum dwellers, our people of the street, natural family planning.
Tôi ngạc nhiên khi thấy rất nhiều thanh niên và thiếu nữ phương Tây bị nghiện thuốc phiện, và tôi cố gắng để tìm hiểu tại sao – tại sao là như thế, và câu trả lời là: Bởi vì không có ai trong gia đình để đón nhận chúng. Cha và mẹ quá bận rộn họ không có thời gian. Các bậc cha mẹ trẻ đang ở tại một cơ sở nào đó và những đứa trẻ quay trở ra đường phố và vướng vào cái gì đó. Chúng ta đang nói về hòa bình. Đây là những điều phá hoại hòa bình, nhưng tôi cảm thấy điều tàn phá hoà bình vĩ đại nhất ngày nay là phá thai, bởi vì nó là một cuộc chiến tranh trực tiếp, cuộc giết hại trực tiếp – cuộc sát hại trực tiếp bởi chính người mẹ. Và chúng ta đọc trong Kinh Thánh, vì Chúa nói rất rõ ràng: Ngay cả khi một người mẹ có thể quên con mình – Ta sẽ không quên con – Ta đã khắc con trên lòng bàn tay của Ta. Chúng ta đã được khắc trong bàn tay của Ngài, thân mật với Ngài đến mức thai nhi đã được khắc trong bàn tay của ngài. Và đó là điều đập vào tôi mạnh nhất, lời bắt đầu của câu đó, thậm chí nếu một người mẹ có thể quên một điều không thể quên – nhưng ngay cả khi cô ta có thể quên – Ta sẽ không quên con. Và ngày nay điều tàn ác lớn nhất – điều tàn phá hòa bình lớn nhất là phá thai. Và chúng ta những người đang đứng ở đây – cha mẹ của chúng ta đã muốn có chúng ta. Chúng ta đã không ở đây nếu cha mẹ của chúng ta đã làm điều đó với chúng ta. Con cái của chúng ta, chúng ta muốn chúng, chúng ta yêu chúng, nhưng với hàng triệu người khác thì sao? Nhiều người rất, rất quan tâm với trẻ em ở Ấn Độ, với trẻ em ở châu Phi nơi mà có khá nhiều số chết, có thể vì suy dinh dưỡng, vì đói khát và vì nhiều thứ, nhưng hàng triệu chết bởi ý muốn cố y’ của người mẹ. Và điều này ngày nay là điều tàn phá hòa bình lớn nhất. Vì nếu người mẹ có thể giết con của chính mình – có cái gì còn lại cho tôi để giết bạn và bạn giết tôi – không còn điều gì nữa giữa hai ta. Và điều này tôi kêu gọi ở Ấn Độ, kêu gọi ở khắp mọi nơi: Hãy mang trẻ thơ trở lại, và năm nay là năm của trẻ thơ: chúng ta đã làm được gì cho trẻ thơ? Vào đầu năm tôi đã bảo, tôi đã diễn thuyết ở khắp mọi nơi và tôi đã nói: Năm nay hãy làm cho mọi trẻ thơ đã sinh, và chưa sinh, được bố mẹ muốn sinh. Và hôm nay là cuối năm, chúng ta đã thực sự làm cho các trẻ thơ được bố mẹ muốn sinh chưa? Tôi sẽ cho các bạn biết vài điều đáng sợ. Chúng tôi đang đấu tranh phá thai bằng cách nhận con nuôi, chúng tôi đã bảo vệ được hàng ngàn emm, chúng tôi đã nhắn lời đến tất cả các phòng khám, bệnh viện, trạm cảnh sát – xin đừng hủy hoại trẻ thơ, chúng tôi sẽ nhận đứa trẻ. Vì vậy, mỗi giờ trong ngày hay đêm luôn luôn là một ai đó, chúng tôi có khá nhiều bà mẹ chưa cưới – kêu họ đến, chúng tôi sẽ chăm sóc bạn, chúng tôi sẽ nhận con của bạn, và chúng tôi sẽ cho trẻ thơ một mái ấm. Và chúng ta có nhu cầu lớn từ những gia đình không có con, đó là phước lành của Chúa đối với chúng ta. Và nữa, chúng tôi cũng đang làm một điều rất đẹp – chúng tôi đang dạy những người ăn xin, bệnh nhân phong cùi, cư dân khu ổ chuột, người không nhà, kế hoạch hóa gia đình theo cách tự nhiên.
And in Calcutta alone in six years – it is all in Calcutta – we have had 61,273 babies less from the families who would have had, but because they practise this natural way of abstaining, of self-control, out of love for each other. We teach them the temperature meter which is very beautiful, very simple, and our poor people understand. And you know what they have told me? Our family is healthy, our family is united, and we can have a baby whenever we want. So clear – those people in the street, those beggars – and I think that if our people can do like that how much more you and all the others who can know the ways and means without destroying the life that God has created in us.
Và riêng vùng Calcutta trong sáu năm – tất cả đều ở Calcutta, chúng tôi đã giảm được 61.273 trẻ sơ sinh trong các gia đình đáng lẽ phải có con, nhưng vì họ thực hành kiêng cữ bằng cách tự nhiên, tự kiểm soát, qua tình yêu cho nhau. Chúng tôi dạy cho họ cách đo nhiệt độ rất đẹp, rất đơn giản, và những người nghèo của chúng tôi hiểu. Và bạn biết những gì họ đã nói với tôi không? Gia đình chúng tôi được khỏe mạnh, gia đình chúng tôi đoàn kết, và chúng tôi có thể có con bất cứ khi nào chúng tôi muốn. Quá rõ ràng – những người lang thang đường phố, những người ăn xin – và tôi nghĩ rằng nếu người của chúng tôi có thể làm như thế thì bạn và tất cả người khác có thể làm nhiều hơn thế nào vì các bạn biết được cách thức và phương tiện (kế hoạc hóa gia đình) mà không hủy hoại sự sống Chúa đã tạo ra trong chúng ta.
The poor people are very great people. They can teach us so many beautiful things. The other day one of them came to thank and said: You people who have vowed chastity you are the best people to teach us family planning. Because it is nothing more than self-control out of love for each other. And I think they said a beautiful sentence. And these are people who maybe have nothing to eat, maybe they have not a home where to live, but they are great people. The poor are very wonderful people. One evening we went out and we picked up four people from the street. And one of them was in a most terrible condition – and I told the Sisters: You take care of the other three, I take of this one that looked worse. So I did for her all that my love can do. I put her in bed, and there was such a beautiful smile on her face. She took hold of my hand, as she said one word only: Thank you – and she died.
Những người dân nghèo là những người rất tuyệt vời. Họ có thể dạy chúng ta nhiều điều rất đẹp. Một ngày nọ một trong số họ đến để cảm ơn và nói: Các soeurs, những người đã thể nguyện đức tinh khiết là những người tốt nhất để dạy chúng tôi kế hoạch hóa gia đình. Bởi vì nó không gì ngoài ra sự tự kiểm soát tình yêu dành cho nhau. Và tôi nghĩ rằng họ đã nói một câu tuyệt đẹp. Và đây là những người có thể không có gì để ăn, không có nhà để ở, nhưng họ là những người tuyệt vời. Người nghèo là những người rất tuyệt vời. Một buổi tối, chúng tôi ra ngoài và gặp bốn người trên đường phố. Và một trong số đó đang trong tình trạng khủng khiếp nhất – và tôi nói với các soeurs: Chị chăm sóc ba người kia, tôi chăm người này trông tồi tệ nhất. Và, tôi đã làm tất cả những gì tình yêu của tôi có thể. Tôi đặt cô ấy trên giường, và một nụ cười nở rất đẹp trên khuôn mặt của cô. Cô ta nắm lấy tay tôi, nói một lời duy nhất: Cảm ơn – và cô đã chết.
I could not help but examine my conscience before her, and I asked what would I say if I was in her place. And my answer was very simple. I would have tried to draw a little attention to myself, I would have said I am hungry, that I am dying, I am cold, I am in pain, or something, but she gave me much more – she gave me her grateful love. And she died with a smile on her face. As that man whom we picked up from the drain, half eaten with worms, and we brought him to the home. I have lived like an animal in the street, but I am going to die like an angel, loved and cared for. And it was so wonderful to see the greatness of that man who could speak like that, who could die like that without blaming anybody, without cursing anybody, without comparing anything. Like an angel – this is the greatness of our people. And that is why we believe what Jesus had said: I was hungry – I was naked – I was homeless – I was unwanted, unloved, uncared for – and you did it to me.
Tôi buộc phải xét lương tâm của tôi trước cô ấy, và tôi hỏi tôi sẽ nói gì nếu tôi rơi vào hoàn cảnh của cô ta. Và câu trả lời của tôi là rất đơn giản. Tôi sẽ cố gắng tạo một ít sự chú ý cho bản thân, tôi sẽ nói tôi đói, rằng tôi đang chết, tôi lạnh, tôi đau đớn, hoặc gì đó, nhưng cô ấy đã cho tôi nhiều hơn – cô ấy đã cho tôi tình yêu của sự biết ơn. Và cô ấy đã chết với một nụ cười trên khuôn mặt. Khi một người mà chúng tôi đã gặp từ ống cống, bị dòi ăn nửa người, và chúng tôi đưa người đó về nhà. Tôi đã sống như một con vật trên đường phố, nhưng tôi sẽ chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc. Và rất tuyệt vời để nhìn thấy sự vĩ đại của một người có thể nói như thế, người có thể chết như thế mà không đổ lỗi cho bất cứ ai, mà không nguyền rủa bất cứ ai, mà không so sánh bất cứ điều gì. Như một thiên thần – điều này là sự vĩ đại của con người chúng ta. Và đó là lý do vì sao chúng ta tin tưởng những gì Giêsu đã nói: Ta đói khát – Ta trần truồng – ta không nhà – Ta không ai muốn, không được yêu, không được chăm sóc – và con đã chăm sóc ta.
I believe that we are not real social workers. We may be doing social work in the eyes of the people, but we are really contemplatives in the heart of the world. For we are touching the Body of Christ 24 hours. We have 24 hours in this presence, and so you and I. You too try to bring that presence of God in your family, for the family that prays together stays together. And I think that we in our family don’t need bombs and guns, to destroy to bring peace – just get together, love one another, bring that peace, that joy, that strength of presence of each other in the home. And we will be able to overcome all the evil that is in the world.
Tôi tin rằng chúng tôi không thực sự là những người cán bộ xã hội. Có thể là chúng tôi làm công tác xã hội trong mắt của mọi người, nhưng chúng tôi thực sự là những người mặc niệm trong trái tim của thế giới. Vì chúng tôi tiếp xúc với Thân Thể Chúa 24 giờ. Chúng ta có 24 giờ trong sự hiện diện này, và bạn và tôi cũng vậy. Bạn cũng cố gắng mang sự hiện diện của Chúa vào gia đình bạn, cho gia đình cầu nguyện cùng nhau sống với nhau. Và tôi nghĩ rằng chúng ta trong gia đình không cần bom và súng, phá hủy để mang lại hòa bình – chỉ cần đến với nhau, yêu thương nhau, mang lại sự bình an, niềm vui , sức mạnh của sự hiện diện với nhau trong nhà. Và chúng ta có thể vượt qua tất cả các điều ác trên thế giới.
There is so much suffering, so much hatred, so much misery, and we with our prayer, with our sacrifice are beginning at home. Love begins at home, and it is not how much we do, but how much love we put in the action that we do. It is to God Almighty – how much we do it does not matter, because He is infinite, but how much love we put in that action. How much we do to Him in the person that we are serving.
Có quá nhiều đau khổ, quá nhiều hận thù, quá nhiều khốn khổ, và chúng ta, với lời cầu nguyện, với sự hy sinh, bắt đầu từ trong nhà. Tình yêu bắt đầu trong nhà, và không phải là chúng ta yêu bao nhiêu, nhưng chúng ta chuyển bao nhiêu tình yêu ra hành động trong các điều chúng ta làm . Đó là dâng hiến cho Chúa Toàn Năng – chúng ta làm bao nhiêu không quan trọng, bởi vì Ngài là vô hạn, nhưng bao nhiêu tình yêu chúng ta đặt vào trong hành động đó. Chúng ta làm cho Chúa bao nhiêu qua những người chúng ta đang phục vu.
Some time ago in Calcutta we had great difficulty in getting sugar, and I don’t know how the word got around to the children, and a little boy of four years old, Hindu boy, went home and told his parents: I will not eat sugar for three days, I will give my sugar to Mother Teresa for her children. After three days his father and mother brought him to our home. I had never met them before, and this little one could scarcely pronounce my name, but he knew exactly what he had come to do. He knew that he wanted to share his love.
Trong thời gian trước đây ở Calcutta, chúng tôi gặp khó khăn trong việc mua đường, và tôi không biết tiếng đồn đến với những trẻ em cách nào, và một cậu bé bốn tuổi, cậu bé Ấn Độ giáo, về nhà và nói với cha mẹ của mình: Con sẽ không ăn đường trong ba ngày, con sẽ cho số đường của Con cho Mẹ Teresa cho trẻ em của bà. Sau ba ngày, cha và mẹ của cậu bé đã đưa cậu đến nhà chúng tôi. Tôi chưa bao giờ gặp họ trước đây, và cậu bé này khó rành cả phát âm tên của tôi, nhưng cậu biết chính xác caajyu đã đến để làm gì. Cậu biết rằng cậu muốn chia sẻ tình yêu của mình.
And this is why I have received such a lot of love from you all. From the time that I have come here I have simply been surrounded with love, and with real, real understanding love. It could feel as if everyone in India, everyone in Africa is somebody very special to you. And I felt quite at home I was telling Sister today. I feel in the Convent with the Sisters as if I am in Calcutta with my own Sisters. So completely at home here, right here.
Và đó là tại sao tôi đã nhận được rất nhiều tình yêu từ tất cả các bạn. Từ lúc tôi đến đây, tôi đơn giản là được bao quanh với tình yêu, và với tình yêu hiểu biết thực sự, thực sự. Có thể cảm nhận như thể mọi người ở Ấn Độ, mọi người ở châu Phi là người rất đặc biệt đối với bạn. Và tôi cảm thấy là nhà, tôi đã nói với Chị Em ngày hôm nay. Tôi cảm thấy trong Tu Viện với Chị Em như thể tôi đang ở Calcutta với Chị Em của riêng tôi. Rất trọn vẹn là nhà ở đây, ngay tại nơi đây.
And so here I am talking with you – I want you to find the poor here, right in your own home first. And begin love there. Be that good news to your own people. And find out about your next-door neighbour – do you know who they are? I had the most extraordinary experience with a Hindu family who had eight children. A gentleman came to our house and said: Mother Teresa, there is a family with eight children, they had not eaten for so long – do something. So I took some rice and I went there immediately. And I saw the children – their eyes shinning with hunger – I don’t know if you have ever seen hunger. But I have seen it very often. And she took the rice, she divided the rice, and she went out. When she came back I asked her – where did you go, what did you do? And she gave me a very simple answer: They are hungry also. What struck me most was that she knew – and who are they, a Muslim family – and she knew. I didn’t bring more rice that evening because I wanted them to enjoy the joy of sharing. But there were those children, radiating joy, sharing the joy with their mother because she had the love to give. And you see this is where love begins – at home. And I want you – and I am very grateful for what I have received. It has been a tremendous experience and I go back to India – I will be back by next week, the 15th I hope – and I will be able to bring your love.
Và như tôi đang nói với các bạn ở đây – Tôi muốn các bạn tìm thấy những người nghèo ở đây, ngay trong nhà của chính bạn trước. Và bắt đầu tình yêu ở đó. Hãy là tin mừng cho người của bạn. Và tìm hiểu về người hàng xóm cạnh nhà bạn – bạn có biết họ là ai? Tôi có kinh nghiệm đặc biệt nhất với một gia đình Ấn Giáo với tám người con. Một người đàn ông đến nhà chúng tôi và nói: Mẹ Teresa, có một gia đình với tám đứa con, họ đã không ăn quá lâu – hãy làm điều gì cho họ. Vì vậy, tôi lấy một số gạo và tôi đến đó ngay lập tức. Và tôi thấy các trẻ em – đôi mắt của chúng chiếu sáng với cơn đói – Tôi không biết bạn có bao giờ thấy sự đói. Nhưng tôi thấy rất thường xuyên. Và cô ta đã lấy gạo, cô chia gạo ra, và cô đi ra ngoài. Khi cô ấy trở lại, tôi hỏi cô – cô đã đi đâu, cô đã làm gì? Và cô ấy cho tôi một câu trả lời rất đơn giản: Họ cũng đang đói. Điều gây ấn tượng với tôi nhất là cô biết – và họ là ai, một gia đình Hồi giáo – và cô ấy biết. Tôi đã không đưa thêm gạo tối hôm đó vì tôi muốn họ tận hưởng niềm vui của sự chia sẻ. Nhưng có những đứa trẻ, tỏa ra niềm vui, chia sẻ niềm vui với mẹ mình vì cô đã có tình yêu để cho. Và bạn thấy đây là nơi mà tình yêu bắt đầu – trong nhà. Và tôi muốn bạn – và tôi rất biết ơn những gì tôi đã nhận được. Đây là một kinh nghiệm to lớn và tôi sẽ trở lại Ấn Độ – Tôi sẽ trở lại vào tuần tới, ngày 15, tôi hy vọng – và tôi có thể mang theo tình yêu của các bạn.
And I know well that you have not given from your abundance, but you have given until it has hurt you. Today the little children they have – I was so surprised – there is so much joy for the children that are hungry. That the children like themselves will need love and care and tenderness, like they get so much from their parents. So let us thank God that we have had this opportunity to come to know each other, and this knowledge of each other has brought us very close. And we will be able to help not only the children of India and Africa, but will be able to help the children of the whole world, because as you know our Sisters are all over the world. And with this prize that I have received as a prize of peace, I am going to try to make the home for many people that have no home. Because I believe that love begins at home, and if we can create a home for the poor – I think that more and more love will spread. And we will be able through this understanding love to bring peace, be the good news to the poor. The poor in our own family first, in our country and in the world.
Và tôi biết rõ rằng bạn đã không cho từ sự phong phú của bạn, nhưng bạn cho đến khi nó làm tổn thương bạn. Hôm nay các em nhỏ có được – Tôi rất ngạc nhiên khi có quá nhiều niềm vui cho trẻ em đang bị đói. Những đứa trẻ như chúng sẽ cần tình yêu và sự chăm sóc dịu dàng, giống như chúng nhận được rất nhiều từ cha mẹ của chúng. Vì vậy, chúng ta hãy cảm ơn Chúa vì cơ hội này đến để chúng ta nhận biết nhau, và sự nhận biết nhau này đã xích chúng ta lại gần nhau, rất gần. Và chúng ta có thể giúp đỡ không chỉ trẻ em Ấn Độ và châu Phi, mà có thể giúp đỡ trẻ em trên toàn thế giới, bởi vì như bạn biết Chị Em của chúng tôi có mặt khắp mọi nơi trên thế giới. Và với giải thưởng tôi đã nhận được này là một giải thưởng của hòa bình, tôi sẽ cố gắng làm nhà cho nhiều người không nhà. Bởi vì tôi tin rằng tình yêu bắt đầu trong nhà, và nếu chúng ta có thể tạo ra một ngôi nhà cho người nghèo – Tôi nghĩ rằng tình yêu nhiều hơn và nhiều hơn nữa sẽ lan rộng. Và chúng ta có thể, qua tình yêu hiểu biết mang lại hòa bình này, là tin mừng cho người nghèo. Người nghèo trong chính gia đình của chúng ta trước nhất, rồi trên đất nước ta, và trên thế giới.
To be able to do this, our Sisters, our lives have to be woven with prayer. They have to be woven with Christ to be able to understand, to be able to share. Because today there is so much suffering – and I feel that the passion of Christ is being relived all over again – are we there to share that passion, to share that suffering of people. Around the world, not only in the poor countries, but I found the poverty of the West so much more difficult to remove. When I pick up a person from the street, hungry, I give him a plate of rice, a piece of bread, I have satisfied. I have removed that hunger. But a person that is shut out, that feels unwanted, unloved, terrified, the person that has been thrown out from society – that poverty is so hurtable and so much, and I find that very difficult. Our Sisters are working amongst that kind of people in the West. So you must pray for us that we may be able to be that good news, but we cannot do that without you, you have to do that here in your country. You must come to know the poor, maybe our people here have material things, everything, but I think that if we all look into our own homes, how difficult we find it sometimes to smile at each other, and that the smile is the beginning of love.
Để có thể làm được điều này, Chị Em của chúng tôi, cuộc sống của chúng tôi đã được đan dệt bằng lời cầu nguyện. Cuộc sống của chúng tôi phải được đan dệt với Chúa để có thể hiểu, để có thể chia sẻ. Vì ngày nay có quá nhiều đau khổ – và tôi cảm thấy rằng cuộc khổ nạn của Chúa đang được thực hiện lại – chúng ta có ở đó để chia sẻ cuộc khổ nạn, để chia sẻ nỗi đau khổ đó của con người. Vòng quanh thế giới, không chỉ tại các nước nghèo, nhưng tôi thấy nghèo đói của phương Tây là khó khăn hơn để loại bỏ rất nhiều. Khi tôi thấy một người ngoài đường, bị đói, tôi cho anh ta một dĩa cơm, một miếng bánh mì, tôi hài lòng. Tôi đã xóa bỏ cơn đói đó. Tuy nhiên, một người bị loại bỏ, bị cảm thấy không ai muốn, không được yêu, sợ hãi, người bị ném ra nghèo xã hội- cái nghèo đó có thể là đau đớn rất nhiều, và tôi thấy điều đó rất khó khăn. Chị Em chúng tôi đang làm việc với oại người đó ở phương Tây. Vì vậy, các bạn phải cầu nguyện cho chúng tôi rằng chúng tôi có thể là tin mừng đó, nhưng chúng tôi không thể làm điều đó mà không có các bạn, các bạn phải làm điều đó ở đây trên đất nước các bạn. Các bạn phải biết người nghèo, có thể người của chúng ta ở đây có những thứ vật chất, tất cả mọi thứ, nhưng tôi nghĩ rằng nếu tất cả chúng ta nhìn vào căn nhà riêng của chúng ta, chúng ta thấy khó khăn như thế nào để đôi khi mỉm cười với nhau, và nụ cười là sự bắt đầu của tình yêu.
And so let us always meet each other with a smile, for the smile is the beginning of love, and once we begin to love each other naturally we want to do something. So you pray for our Sisters and for me and for our Brothers, and for our Co-Workers that are around the world. That we may remain faithful to the gift of God, to love Him and serve Him in the poor together with you. What we have done we should not have been able to do if you did not share with your prayers, with your gifts, this continual giving. But I don’t want you to give me from your abundance, I want that you give me until it hurts.
Và vì vậy hãy để chúng ta luôn luôn gặp nhau với nụ cười, nụ cười là khởi đầu của tình yêu, và một khi chúng ta bắt đầu yêu nhau, tự nhiên là chúng ta muốn làm điều gì đó. Vì vậy, bạn cầu nguyện cho Chị Em của chúng tôi và cho tôi và cho Anh Em của chúng tôi, và cho những người làm việc với chúng tôi trên khắp thế giới. Rằng chúng ta có thể vẫn còn trung thành với món quà của Chúa, yêu mến Ngài và phục vụ Ngài trong người nghèo cùng với các bạn. Những gì chúng tôi đã làm chúng tôi không thể làm được nếu các bạn không chia sẻ với những lời cầu nguyện của các bạn, với quà tặng của các bạn, quà tặng liên tục này. Nhưng tôi không muốn bạn cho tôi từ sự phong phú của bạn, tôi muốn bạn cho tôi cho đến khi bạn đau đớn.
The other day I received 15 dollars from a man who has been on his back for twenty years, and the only part that he can move is his right hand. And the only companion that he enjoys is smoking. And he said to me: I do not smoke for one week, and I send you this money. It must have been a terrible sacrifice for him, but see how beautiful, how he shared, and with that money I bought bread and I gave to those who are hungry with a joy on both sides, he was giving and the poor were receiving. This is something that you and I – it is a gift of God to us to be able to share our love with others. And let it be as it was for Jesus. Let us love one another as he loved us. Let us love Him with undivided love. And the joy of loving Him and each other – let us give now – that Christmas is coming so close. Let us keep that joy of loving Jesus in our hearts. And share that joy with all that we come in touch with. And that radiating joy is real, for we have no reason not to be happy because we have no Christ with us. Christ in our hearts, Christ in the poor that we meet, Christ in the smile that we give and the smile that we receive. Let us make that one point: That no child will be unwanted, and also that we meet each other always with a smile, especially when it is difficult to smile.
Ngày hôm nọ tôi nhận được 15 Mỹ kim từ một người đã nằm liệt gường hai mươi năm, và phần duy nhất mà ông có thể cử động được là bàn tay phải của mình. Và bạn đồng hành duy nhất mà ông có được là thuốc lá. Và ông nói với tôi: tôi không hút thuốc trong một tuần, và tôi gửi cho Mẹ số tiền này. Nó phải là một sự hy sinh khủng khiếp đối với ông ta, nhưng sự chia sẻ của ông đẹp biết bao, và dùng số tiền để mua bánh mì và tôi cho những người đói với niềm vui của cả hai bên, ông đã cho và người nghèo đã nhận. Đây là vài điều mà bạn và tôi – một món quà của Chúa cho chúng ta để chúng ta có thể chia sẻ tình yêu của chúng ta với người khác. Và hãy cho như đã cho Giêsu. Hãy yêu nhau như Ngài yêu chúng ta. Hãy yêu Ngài với tình yêu không phân chia. Và niềm vui của lòng yêu thương Ngài và với nhau -chúng ta hãy cho bây giờ – Giáng sinh sắp đến. Hãy giữ niềm vui của tình yêu Chúa đó trong trái tim của chúng ta. Và chia sẻ niềm vui đó với tất cả những ai chúng ta gặp gỡ. Và niềm vui tỏa sáng đó là sự thật, vì chúng ta không có lý do gì để không được hạnh phúc bởi vì chúng ta không có Chúa với chúng ta. Chúa trong trái tim ta, Chúa trong người nghèo mà chúng ta gặp gỡ, Chúa trong nụ cười mà chúng ta cho và nụ cười mà chúng ta nhận. Hãy để chúng ta thực hiện một điểm: Rằng không một trẻ thơ nào bị ruồng bỏ, và rằng chúng ta luôn gặp nhau với một nụ cười, đặc biệt là khi khó có thể cười.
I never forget some time ago about fourteen professors came from the United States from different universities. And they came to Calcutta to our house. Then we were talking about that they had been to the home for the dying. We have a home for the dying in Calcutta, where we have picked up more than 36,000 people only from the streets of Calcutta, and out of that big number more than 18,000 have died a beautiful death. They have just gone home to God; and they came to our house and we talked of love, of compassion, and then one of them asked me: Say, Mother, please tell us something that we will remember, and I said to them: Smile at each other, make time for each other in your family. Smile at each other. And then another one asked me: Are you married, and I said: Yes, and I find it sometimes very difficult to smile at Jesus because he can be very demanding sometimes. This is really something true, and there is where love comes – when it is demanding, and yet we can give it to Him with joy. Just as I have said today, I have said that if I don’t go to Heaven for anything else I will be going to Heaven for all the publicity because it has purified me and sacrificed me and made me really ready to go to Heaven. I think that this is something, that we must live life beautifully, we have Jesus with us and He loves us. If we could only remember that God loves me, and I have an opportunity to love others as he loves me, not in big things, but in small things with great love, then Norway becomes a nest of love. And how beautiful it will be that from here a centre for peace has been given. That from here the joy of life of the unborn child comes out. If you become a burning light in the world of peace, then really the Nobel Peace Prize is a gift of the Norwegian people. God bless you!
Tôi không bao giờ quên mọt thời gian trước đây có khoảng mười bốn vị giáo sư đến từ từ các trường đại học khác nhau ở Mỹ. Và họ tới Calcutta đến nhà của chúng tôi. Sau đó, chúng tôi đã nói chuyện họ đã đến nhà của những người sắp chết. Chúng tôi có một ngôi nhà cho người hấp hối ở Calcutta, nơi mà chúng tôi đã nhận hơn 36.000 người từ các đường phố của Calcutta, và con số lớn hơn 18.000 đã chết một cái chết rất đẹp. Họ mới vừa trở về nhà với Chúa; và họ đến nhà chúng tôi và chúng tôi nói về tình yêu, về lòng từ bi, và sau đó một trong số đó hỏi tôi: Này, Mẹ, xin cho chúng tôi biết vài điều mà chúng tôi sẽ ghi nhớ, và tôi nói với họ: Hãy mỉm cười với nhau, dành thời gian cho nhau trong gia đình của bạn. Mỉm cười với nhau. Và sau đó một người khác hỏi tôi: Tôi có lập gia đình không, và tôi nói: Có, và tôi thấy đôi khi rất khó để mỉm cười với Chúa Giêsu, vì Ngài có thể đòi hỏi rất nhiều. Điều này thực sự phần nào là đúng, và nơi mà tình yêu đến – khi rất đòi hỏi, nhưng chúng ta có thể cho Ngài với niềm vui. Như tôi đã nói ngày hôm nay, tôi nói rằng nếu tôi không lên Thiên đường vì bất cứ điều gì khác thì tôi sẽ được lên thiên đường vì những quảng bá tên tuổi vì chúng làm tôi tinh khiết và hy sinh tôi i và làm tôi thực sự sẵn sàng để lên Thiên đường. Tôi nghĩ rằng đây là điều đáng nói, chúng ta phải sống một cuộc sống thật đẹp, chúng ta có Chúa với chúng ta và Ngài yêu thương chúng ta. Nếu chúng ta chỉ cần nhớ rằng Chúa yêu tôi, và tôi có một cơ hội để yêu người khác như Ngài yêu tôi, không phải với những gì lớn lao, nhưng trong những gì bé nhỏ với tình yêu vĩ đại, từ đó Na Uy trở thành một tổ ấm của tình yêu. Và tuyệt vời làm sao khi từ nơi đây một trung tâm cho hòa bình đã được trao tặng. Từ đây, niềm vui cuộc sống của trẻ thơ chưa sinh hiện diện. Nếu các bạn trở thành một ngọn đèn cháy sáng trong thế giới hòa bình, thì thực sự giải Nobel Hòa bình là một món quà của người dân Na Uy. Chúa ban phúc lành cho bạn!

WHAT EDUCATED WOMEN CAN DO - ĐIỀU NHỮNG PHỤ NỮ CÓ GIÁO DỤC CÓ THỂ LÀM




by Indira Gandhi, Prime Minister of India

(Indira Gandhi, Thủ tướng Ấn Độ)


Address at the golden jubilee celebrations of the Indraprastha College for Women in Delhi, India on November 23, 1974.
Bài trình bày tại lễ chào mừng 50 năm thành lập ở Trường Đại Học Nữ Indraprastha ở Delhi, Ấn Độ ngày 23 tháng 11 năm 1974.
An ancient Sanskrit saying says, woman is the home and the home is the basis of society. It is as we build our homes that we can build our country. If the home is inadequate–either inadequate in material goods and necessities or inadequate in the sort of friendly, loving atmosphere that every child needs to grow and develop–then that country cannot have harmony and no country which does not have harmony can grow in any direction at all.
Ngạn ngữ Sanskrit cổ nói rằng, phụ nữ là gia đình và gia đình là nền tảng của xã hội. Khi chúng ta xây dựng gia đình của mình, chúng ta xây dựng được đất nước của chúng ta. Nếu gia đình không hoàn chỉnh – hoặc thiếu thốn về vật chất và những điều kiện thiết yếu, hoặc thiếu thốn không khí thân thiết yêu thương mà mọi đứa trẻ đều cần để trưởng thành và phát triển – thì đất nước đó không thể nào có sự hòa hợp, và không có một đất nước nào không có hòa hợp lại có thể phát triển theo được một hướng nào.
That is why women’s education is almost more important than the education of boys and men. We–and by “we” I do not mean only we in India but all the world–have neglected women education. It is fairly recent. Of course, not to you but when I was a child, the story of early days of women’s education in England, for instance, was very current. Everybody remembered what had happened in the early days.
Đó là lý do tại sao giáo dục cho phụ nữ gần như quan trọng hơn giáo dục cho phái nam. Chúng ta – khi sử dụng từ “chúng ta” tôi không có ý chỉ nói đến Ấn Độ mà là cả thế giới này – đã thờ ơ với giáo dục cho phụ nữ. Giáo dục cho phụ nữ chỉ là chuyện mới gần đây. Dĩ nhiên, không phải với các bạn nhưng khi tôi còn là 1 đứa trẻ, câu chuyện về những ngày đầu tiên của giáo dục cho phụ nữ ở nước Anh, chẳng hạn, đã là chuyện rất thời sự. Tất cả mọi người đều nhớ về những gì đã xảy ra trong những ngày đầu tiên đó.
I remember what used to happen here. I still remember the days when living in old Delhi even as a small child of seven or eight. I had to go ou t in a doli if I left the house. We just did not walk. Girls did not walk in the streets. First, you had your sari with which you covered your head, then you had another shawl or something with which you covered your hand and all the body, then you had a white shawl, with which every thing was covered again although your face was open fortunately. Then you were i n the doli, which again was covered by another cloth. And this was in a family or community which did not observe purdah of any kind at all. In fact, all our social functions always were mixed functions but this was the atmosphere of the city and of the country.
Tôi nhớ những gì đã từng xảy ra ở đây. Tôi vẫn nhớ những ngày sống ở Delhi ngày xưa ngay cả khi tôi chỉ mới là trẻ con 7-8 tuổi. Nếu tôi ra khỏi nhà tôi phải ngồi trong kiệu. Chúng tôi không đi bộ. Con gái không được đi bộ ra đường. Đầu tiên, bạn có sari để quấn quanh đầu, sau đó bạn có một khăn quàng hay cái gì đó để che tay và toàn cơ thể, rồi bạn có một khăn choàng trắng để che hết mọi thứ lần nữa dù mặt của bạn được many mắn để hở. Sau đó, bạn phải ngồi trong kiệu, và kiệu 1 lần nữa lại được phủ bằng một tấm vải. Và đấy là ở trong một gia đình hay cộng đồng không có theo bất kì loại purdah [luật che giấu phụ nữ] nào. Trên thực tế, tất cả các phong tục xã hội của chúng tôi luôn luôn là các phong tục hòa trộn nhưng đó là không khí chung ở thành phố và của cả nước.
Now, we have got education and there is a debate all over the country whether this education is adequate to the needs of society or the needs of our young people. I am one of those who always believe that education needs a thorough overhauling. But at the same time, I think that everything in our education is not bad, that even the present education has produced very fine men and women, specially scientists and experts in different fields, who are in great demand all over the world and even in the most affluent countries. Many of our young people leave us and go abroad because they get higher salaries, they get better conditions of work.
Ngày nay chúng ta được giáo dục và trên khắp cả nước có cuộc tranh luận về nền giáo dục này có đầy đủ cho nhu cầu xã hội hay nhu cầu của những người trẻ của chúng ta không. Tôi là một trong những người luôn luôn tin rằng giáo dục cần một cuộc cải cách toàn diện. Nhưng cùng lúc, tôi nghĩ rằng mọi thứ trong nền giáo dục của chúng ta không tệ, rằng thậm chí nền giáo dục hiện tại đã sản sinh ra những người đàn ông và phụ nữ rất tài giỏi, đặc biệt là những nhà khoa học và chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác nhau, những người được cần rất nhiều trên toàn thế giới và ngay cả ở những quốc gia hùng mạnh nhất. Rất nhiều thanh niên của chúng ta đã rời bỏ chúng ta và đi ra nước ngoài vì ở đó họ được nhận lương cao hơn, họ được có điều kiện làm việc tốt hơn.
But it is not all a one-sided business because there are many who are persuaded and cajoled to go even when they are reluctant. We know of first class students, especially in medicine or nuclear energy for instance, they are approached long before they have passed out and offered all kinds of inducements to go out. Now, that shows that people do consider that they have a standard of knowledge and capability which will be useful any where in the world.
Nhưng không phải tất cả đều là giao dịch một chiều bởi vì có rất nhiều người được tiếp cận và bị thuyết phục ra đi thậm chí cả khi họ ngần ngại không muốn đi. Chúng ta biết đến những học sinh hạng ưu, đặc biệt trong ngành y khoa hay năng lượng nguyên tử là một ví dụ, họ được tiếp cận rất lâu trước khi họ ra trường và họ được đề nghị đủ loại lý do để đi ra nước ngoài. Vâng, điều đó cho thấy người ta thực sự nhìn nhận rằng người ta có một chuẩn kiến thức và khả năng hữu ích ở bất cứ nơi nào trên thế giới.
So, that is why I say that there is something worthwhile. It also shows that our own ancient philosophy has taught us that nothing in life is entirely bad or entirely good. Everything is somewhat of a mixture and it depends on us and our capability how we can extract the good, how we can make use of what is around us. There are people who through observation can learn from anything that is around them. There are others who can be surrounded by the most fascinating people, the most wonderful books, and other things and who yet remain quite closed in and they are unable to take anything from this wealth around them.
Vì vậy, đó là lý do tại sao tôi nói rằng vẫn có những điều rất xứng đáng. Nó cũng cho thấy điều mà các nhà triết gia cổ của chúng ta đã dạy chúng ta, đó là không có thứ gì trên cuộc đời này hoàn toàn xấu hay hoàn toàn tốt. Mọi thứ đều phần nào đó là một hỗn hợp và tùy thuộc vào chúng ta, vào khả năng của chúng ta để lấy ra được điều tốt, để sử dụng những gì quanh chúng ta. Có những người thông qua quan sát có thể học từ bất kỳ thứ gì xung quanh họ. Có những người khác có thể được vây quanh bởi những nhân vật hấp dẫn nhất, những quyển sách tuyệt vời vô cùng và nhiều thứ khác nữa mà vẫn chỉ tiếp tục khép kín và không thể nào lấy được một điều nào từ những thứ dồi dào xung quanh họ.
Our country is a very rich country. It is rich in culture, it is rich in many old traditions–old and even modern tradition. Of course, it has a lot of bad things too and some of the bad things are in the society–superstition, which has grown over the years and which sometimes clouds over the shining brightness of ancient thought and values, eternal values. Then, of course, there is the physical poverty of large numbers of our people. That is something which is ugly and that hampers the growth of millions of young boys and girls. Now, all these bad things we have to fight against and that is what we are doing since Independence.
Đất nước chúng ta là một đất nước rất giàu có. Chúng ta giàu về văn hóa, giàu về nhiều truyền thống cổ – cổ và ngay cả truyền thống hiện đại. Dĩ nhiên, đất nước này cũng có những điều tồi tệ và một số điều tồi tệ nằm ngay trong xã hội chúng ta – mê tín, cái đã bám rễ và phát triển qua hàng bao nhiêu năm và thỉnh thoảng che mờ cả sự sáng suốt của những tư tưởng và giá trị cổ truyền, những giá trị bất tử. Và, dĩ nhiên, có sự đói nghèo vật chất của đại đa số quần chúng. Đó là điều xấu xí và cản trở sự phát triển của hàng triệu thiếu niên nam nữ. Ngày nay, đấu tranh chống lại tất cả những điều tồi tệ này là điều chúng ta phải làm và chúng ta đang làm kể từ ngày Độc Lập.
But, we must not allow this dark side of the picture which, by the way, exists in every country in the world. Even the most rich country in the world has its dark side, but usually other people hide their dark sides and they try to project the shining side or the side of achievement. Here in India, we seem to want to project the worst side of society. Before anybody does anything, he has to have, of course, knowledge and capability, but along with it he has to have a certain amount of pride in what he or she is doing. He has to have self-confidence in his own ability. If your teacher tells, “You cannot do this,” even if you are a very bright student I think every time you will find, it will be more and more difficult for you to do it. But if your teacher encourages saying, “Go along you have done very good work, now try a little harder,” then you will try a little harder and you will be able to do it. And it is the same with societies and with countries.
Nhưng, bên cạnh đó, chúng ta không được cho phép mặt tối của bức tranh, cũng nên nói là mặt tối này tồn tại ở mọi quốc gia trên thế giới. Ngay cả đất nước giàu có nhất trên thế giới cũng có mặt trái của nó, nhưng thông thường người ta che giấu đi những mặt tối và trưng bày mặt sáng hoặc là mặt thành công. Ở đây, tại Ấn Độ, chúng ta có vẻ như muốn trưng bày mặt tồi nhất cuả xã hội. Trước khi một người nào làm một điều gì đó, anh ta phải có, dĩ nhiên, kiến thức và khả năng, nhưng bên cạnh đó, anh phải có một mức độ tự hào nào đó trong việc anh ta làm. Anh ta phải tự tin vào khả năng của anh ta. Nếu giáo viên của bạn nói rằng, “Bạn không thể làm điều này”, thì ngay cả khi bạn là một học sinh rất thông minh, tôi nghĩ chắc chắn bạn sẽ thấy càng ngày càng khó khăn để làm được điều đó. Nhưng nếu giáo viên của bạn nói và khuyến khích bạn, “Hãy làm đi, bạn đã làm rất tốt, bây giờ hãy cố gắng thêm chút nữa”, bạn sẽ cố gắng thêm nữa, và bạn sẽ có khả năng làm được việc đó. Điều này cũng đúng với xã hội và đất nước.
This country, India, has had remarkable achievements to its credit, of course in ancient times, but even in modern times, I think there are a few modern stories, success stories, which are as fascinating as the success story of our country. It is true that we have not banished poverty, we have not banished many of our social ills, but if you compare us to what we were just about 27 years ago, I think that you will not find a single other country that has been able to achieve so much under the most difficult circumstances.
Đất nước Ấn Độ này là đất nước đạt những thành công vượt bậc, dĩ nhiên trong các thời cổ đại, nhưng ngay cả trong thời hiện đại. Tôi nghĩ có một vài câu chuyện hiện đại, những câu chuyện thành công rất hấp dẫn như là những câu chuyện thành công của đất nước chúng ta. Đúng là chúng ta không chưa loại bỏ được nghèo đó, chúng ta chưa loại bỏ được những tệ nạn xã hội, nhưng nếu so sánh chúng ta với chính chúng ta 27 năm về trước, tôi nghĩ rằng bạn sẽ không tìm thấy được một đất nước nào có thể đạt được nhiều thành công như vậy dưới những điều kiện cực kỳ khó khăn như đất nước chúng ta.
Today, we are passing through specially dark days. But these are not dark days for India alone. Except for the countries which call themselves socialist and about which we do not really know very much, every other country has the same sort of economic problems, which we have. Only a few countries, which have very small populations, have no unemployment. Otherwise, the rich countries also today have unemployment. They have shortages of essential articles. They have shortages even of food.
Hiện nay, chúng ta đang trải qua những ngày đặc biệt u ám. Nhưng đây là những ngày u ám không riêng gì cho Ấn Độ. Ngoại trừ những quốc gia tự gọi họ là những nước xã hội chủ nghĩa và chúng ta không biết gì nhiều về họ, tất cả các nước khác đều có những vấn đề kinh tế tương tự như chúng ta gặp phải. Chỉ có 1 vài nước, với dân số ít ỏi là không có người thất nghiệp. Trong khi ngược lại, các nước giàu có ngày nay đều có người thất nghiệp. Và các nước này thiếu rất nhiều nguồn tài nguyên thiết yếu. Họ thậm chí thiếu cả thức ăn.
I do not know how many of you know that the countries of Western Europe and Japan import 41 per cent of their food needs, whereas India imports just under two per cent. Yet, somehow we ourselves project an image that India is out with the begging bowl. And naturally when we ourselves say it, other people will say it much louder and much stronger. It is true, of course, that our two per cent is pretty big because we are a very big country and we have a far bigger population than almost any country in the world with the exception of China. We have to see and you, the educated women, because it is great privilege for you to have higher education, you have to try and see our problems in the perspective of what has happened here in this country and what is happening all over the world.
Tôi không biết có bao nhiêu người trong các bạn biết rằng các nước Tây Âu và Nhật Bản nhập khẩu 41% nhu cầu lương thực của họ, trái lại Ấn Độ chỉ nhập khẩu chưa đến 2%. Tuy nhiên, bằng cách nào đó chúng ta luôn mường tượng ra hình ảnh Ấn Độ với cái chén ăn xin. Và tự nhiên, khi chính chúng ta nói ra điều đó, những người khác sẽ nói to hơn và mạnh hơn. Là sự thật, dĩ nhiên, 2% là con số lớn vì chúng ta là một nước rất lớn và dân số trong nước cao hơn rất nhiều so với hầu hết các nước khác trên thế giới, ngoại trừ Trung Quốc. Chúng ta phải nhìn thấy được, và các bạn, những người phụ nữ có giáo dục, bởi vì đó là một ưu quyền rất lớn khi bạn được tiếp nhận giáo dục đại học, bạn phải cố gắng nhìn các vấn đề của chúng ta dưới góc độ điều gì đang xảy ra trong đất nước này và điều gì đang xảy ra trên toàn thế giới.
There is today great admiration for certain things that have happened in other countries where the society is quite differently formed, where no dissent is allowed. The same people who admire that system or the achievements of that system are the ones who say there is dictatorship here even though, I think, nobody has yet been able to point out to me which country has more freedom of expression or action. So, something is said and a lot of people without thinking keep on repeating it with additions until an entirely distorted picture of the country and of our people is presented.
Hiện tại có sự ngưỡng mộ lớn lao đối với một số điều xảy ra ở các nước khác, nơi mà ở đó xã hội được hình thành khác biệt hoàn toàn với chúng ta, nơi mà không có bất đồng chính kiến nào được cho phép. Cũng chính những người ngưỡng mộ hệ thống đó và những thành công trong hệ thống đó là những người nói rằng ở đất nước này có chế độ chuyên chính độc tài, mặc dù theo tôi nghĩ không ai có thể chỉ ra cho tôi thấy đất nước nào có nhiều quyền tự do công luận hay hành động hơn đất nước chúng ta. Nên, có những điều được tuyên bố ra, và rất nhiều người cứ lặp đi lặp lại không cần suy nghĩ mà còn thêm thắt cho đến khi trưng ra một hình ảnh đất nước và con người chúng ta hết sức méo mó.
As I said, we do have many shortcomings, whether it is the government, whether it is the society. Some are due to our traditions because, as I said, not all tradition is good. And one of the biggest responsibilities of the educated women today is how to synthesise what has been valuable and timeless in our ancient traditions with what is good and valuable in modern thought. All that is modern is not good just as all that is old is neither all good nor all bad. We have to decide, not once and for all but almost every week, every month what is coming out that is good and useful to our country and what of the old we can keep and enshrine in our society. To be modern, most people think that it is something of a manner of dress or a manner of speaking or certain habits and customs, but that is not really being modern. It is a very superficial part of modernity.
Như tôi đã nói, chúng ta có những điểm yếu kém, có thể là ở nhà nước, có thể là ở trong xã hội. Một số do bởi những truyền thống của chúng ta bởi vì, như tôi nói, không phải mọi truyền thống đều tốt. Và một trong những trách nhiệm lớn nhất của phụ nữ có giáo dục ngày nay là làm sao để phối hợp những gì có giá trị và vượt thời gian trong các truyền thống cổ truyền với những tư tưởng mới tốt và có giá trị. Không phải tất cả những gì hiện đại đều tốt cũng như không phải tất cả những gì cũ kỹ đều hoặc chỉ tốt hoặc chỉ xấu. Chúng ta phải quyết định, không phải một lần cho vĩnh cữu, nhưng gần như mỗi tuần, mỗi tháng rằng những gì vừa ra là tốt và hữu ích cho đất nước chúng ta và những gì ccuar truyền thống cũ chúng ta cần giữ lại và tôn thờ cho xã hội chúng ta. Để là người hiện đại, đa phần mọi người nghĩ rằng thứ gì đó thể hiện phong cách ăn mặc hoặc phong cách nói, hoặc một số thói quen và hành vi nhất định, nhưng nó không thực sự như vậy. Đây chỉ là phần rất hời hợt của khái niệm hiện đại.
For instance, when I cut my hair, it was because of the sort of life that I was leading. We were all in the movement. You simply could not have long hair and go in the villages and wash it every day. So, when you lead a life, a particular kind of life, your clothes, your everything has to fit into that life if you are to be efficient. If you have to go in the villages and you have to bother whether your clothes are going to be dirty, then you cannot be a good worker. You have to forget everything of that kind. That is why, gradually, clothes and so on have changed in some countries because of the changes in the life-style. Does it suit our life-style or what we want to do or not? If it does, maybe we have to adopt some of these things not merely because it is done in another country and perhaps for another purpose. But what clothes we wear is really quite unimportant. What is important is how we are thinking.
Ví dụ như khi tôi cắt tóc, đó là bởi vì cuộc sống mà tôi đang sống. Chúng ta luôn luôn vận động. Tôi đơn giản không thể để tóc dài và đi về các làng bản và gội đầu mỗi ngày. Vì vậy, khi bạn chọn sống một đời sống, một đời sống cụ thể, quần áo của bạn, tất cả mọi thứ về bạn phải phù hợp với cuộc sống để bạn làm việc hiệu quả. Nếu bạn phải đi vào các làng xóm và bạn phải mất thời gian lo lắng quần áo của bạn bị dơ, thì bạn không thể là một người làm việc hiệu quả. Bạn phải quên những điều linh tinh đó. Đó là lý do tại sao, dần dần, quần áo và những thứ tương tự luôn luôn thay đổi ở một số nước vì phong cách sống thay đổi. Những quần áo đó có phù hợp với phong cách sống của chúng ta hay những việc chúng ta muốn làm hay không? Nếu có, có thể chúng ta phải chấp nhận một phần nào đó những thứ này không chỉ đơn thuần vì nó được sáng tạo ra ở nước ngoài mà có lẽ cho những mục đích khác. Nhưng mặc trang phục nào thật sự là điều không có gì quan trọng. Điều quan trọng là cách chúng ta tư duy và suy nghĩ.
Sometimes, I am very sad that even people who do science are quite unscientific in their thinking and in their other actions–not what they are doing in the laboratories but how they live at home or their attitudes towards other people. Now, for India to become what we want it to become with a modern, rational society and firmly based on what is good in our ancient tradition and in our soil, for this we have to have a thinking public, thinking young women who are not content to accept what comes from any part of the world but are willing to listen to it, to analyse it and to decide whether it is to be accepted or whether it is to be thrown out and this is the sort of education which we want, which enables our young people to adjust to this changing world and to be able to contribute to it.
Thỉnh thoảng tôi cảm thấy rất buồn khi có những người làm việc về khoa học nhưng suy nghĩ và hành động lại khá phản khoa học – không phải tôi nói về những gì họ làm ở phòng thí nghiệm mà là cách họ sống ở nhà và thái độ của họ đối với những người khác. Ngày nay, để Ấn Độ có thể trở thành một đất nước mà chúng ta muốn nó trở thành với một xã hội hiện đại, hợp lý và nương tựa vững chải trên những điều tốt đẹp trong truyền thống cổ truyền và trong mảnh đất của chúng ta, để làm được điều đó chúng ta cần phải có một quấn chúng có tư duy, có những thanh thiếu nữ biết suy nghĩ, những người không bằng lòng chấp nhận những gì đến từ một nơi nào đó bất kỳ trên thế giới, nhưng sẵn lòng lắng nghe, phân tích những thứ đó và quyết định cái nào có thể chấp nhận được, cái nào phải gạt ngang và đây chính là phương hướng giáo dục mà chúng ta muốn, một nền giáo dục cho phép các thanh thiếu niên của chúng ta tự điều chỉnh với thế giới luôn thay đổi này và có đủ khả năng để đóng góp vào đó.
Some people think that only by taking up very high jobs, you are doing something important or you are doing national service. But we all know that the most complex machinery will be ineffective if one small screw is not working as it should and that screw is just as important as any big part. It is the same in national life. There is no job that is too small; there is no person who is too small. Everybody has something to do. And if he or she does it well, then the country will run well.
Một số người nghĩ rằng chỉ bằng cách làm những công việc cao cấp, thì họ mới làm điều gì đó rất quan trọng hoặc đang giúp đỡ cho đất nước. Nhưng tất cả chúng ta đều biết rằng bộ máy phức tạp nhất cũng sẽ hoạt động không hiệu quả nếu chỉ một con ốc không hoạt động đúng chức năng và con ốc đó cũng quan trọng như bất kỳ một bộ phận to lớn nào khác trong cỗ máy. Điều này cũng tương tự với đời sống của một đất nước. Không có công việc nào là quá nhỏ bé; không có cá nhân nào là quá nhỏ nhoi. Tất cả mọi người đều có việc gì đó để làm. Và nếu anh hay chị làm việc đó tốt, thì đất nước sẽ hoạt động tốt.
In our superstition, we have thought that some work is dirty work. For instance, sweeping has been regarded as dirty. Only some people can do it; others should not do it. Now we find that manure is the most valuable thing that the world has today and many of the world’s economies are shaking because there is not enough fertilizer–and not just the chemical fertilizer but the ordinary manure, night-soil and all that sort of thing, things which were considered dirty.
Trong suy nghĩ của chúng ta, chúng ta hay mường tượng có những công việc gọi là công việc dơ bẩn. Ví dụ như, quét rác là công việc dơ bẩn. Chỉ có một số người có thể làm việc đó; những người khác không nên làm việc đó. Ngày nay chúng ta thấy rằng phân là nguồn tài nguyên giá trị mà thế giới ngày nay rất cần và rất nhiều nền kinh tế trên thế giới đang rúng động vì họ không có đủ phân bón – và không chỉ phân bón hóa học mà là phân bình thường, phân hữu cơ, phân từ người và các loại tương tự, những thứ được xem là dơ bẩn.
Now it shows how beautifully balanced the world was with everything fitted in with something else. Everything, whether dirty or small, had a purpose. We, with our science and technology, have tried to–not purposely, but somehow, we have created an imbalance and that is what is troubling, on a big scale, the economies of the world and also people and individuals. They are feeling alienated from their societies, not only in India but almost in every country in the world, except in places where the whole purpose of education and government has to be to make the people conform to just one idea. We are told that people there are very happy in whatever they are doing. If they are told to clean the streets, well, if he is a professor he has to clean the streets, if he is a scientist he has to do it, and we were told that they are happy doing it. Well, if they are happy, it is alright.
Ngày nay chúng ta thấy thế giới này cân đối tuyệt đẹp biết bao khi mọi thứ phối hợp khớp lại với nhau. Tất cả mọi thứ, dù là nhỏ nhoi hay dơ bẩn đều có mục đích của nó. Chúng ta, với khoa học và công nghệ của mình, đã cố gắng – dù không cố tình, nhưng bằng cách nào đó, chúng ta đã tạo ra sự mất cân đối, và trên bình diện rộng, nó gây ra vấn đề đối với các nền kinh tế trên thế giới, đối với các xã hội, và cả các cá nhân. Mọi người cảm thấy xa lạ với chính xã hội của họ, không phải chỉ ở Ấn Độ mà hầu như ở tất cả các nước trên thế giới, chỉ trừ những nơi mà toàn bộ mục tiêu của giáo dục và nhà nước chỉ là để làm mọi người tuân thủ một y’ tưởng duy nhất. Chúng ta nghe nói rằng ở đó mọi người lúc nào cũng rất hạnh phúc với bất kỳ việc gì họ làm. Nếu người ta bảo họ dọn sạch đường phố, ừ, nếu anh là giáo sư đại học anh phải dọn sạch đường phố, nếu anh là nhà khoa học anh phải làm việc đó, và chúng ta nghe nói rằng họ làm việc đó một cách rất vui vẻ. Ừ thì nếu họ vui vẻ, điểu đó tốt.
But I do not think in India we can have that kind of society where people are forced to do things because we think that they can be forced maybe for 25 years, maybe for 50 years, but sometime or the other there will be an explosion. In our society, we allow lots of smaller explosions because we think that that will guard the basic stability and progress of society and prevent it from having the kind of chaotic explosion which can retard our progress and harmony in the country.
Nhưng tôi không nghĩ rằng ở Ấn Độ chúng ta có thể có loại xã hội như vậy. Một xã hội mà ở đó con người có thể bị ép làm việc bởi vì chúng ta nghĩ rằng họ có thể bị ép buộc, có thể là trong 25 năm, có thể là trong 50 năm, nhưng một lúc nào đó sẽ có một sự bùng nổ. Trong xã hội của chúng ta, chúng ta cho phép rất nhiều bung nổ nhỏ hơn bởi vì chúng ta nghĩ rằng điều đó bảo vệ sự ổn định cơ bản và sự tiến bộ của xã hội và ngăn ngừa xã hội khỏi những bùng nổ xáo trộn xã hội, làm chậm lại tiến trình phát triển của xã hội và sự hòa hợp của đất nước.
So, I hope that all of you who have this great advantage of education will not only do whatever work you are doing keeping the national interests in view, but you will make your own contribution to creating peace and harmony, to bringing beauty in the lives of our people and our country. I think this is the special responsibility of the women of India. We want to do a great deal for our country, but we have never regarded India as isolated from the rest of the world. What we want to do is to make a better world. So, we have to see India’s problems in the perspective of the larger world problems.
Vì vậy, tôi hy vọng rằng tất cả các bạn, những người có một thuận lợi rất to lớn là được giáo dục, sẽ không chỉ làm công việc của mình vì lợi ích của quốc gia, mà các bạn sẽ còn nỗ lực đóng góp phần mình vào công cuộc sáng tạo hòa bình và hòa hợp, vào việc mang cái đẹp đến với cuộc sống của nhân dân chúng ta và đất nước chúng ta. Tôi nghĩ đây là trách nhiệm quan trọng của phụ nữ Ấn Độ. Chúng ta muốn làm nhiều cho đất nước, nhưng chúng ta phải nhớ đừng xem Ấn Độ là cô lập với thế giới. Những gì chúng ta muốn làm là làm cho thế giới này tốt đẹp hơn. Vì vậy chúng ta phải xem xét các vấn đề của Ấn Độ dưới góc độ các vấn đề lớn hơn của thế giới.
It has given me great pleasure to be with you here. I give my warm congratulations to those who are doing well and my very good wishes to all the others that they will also do much better. This college has had a high reputation but we must always see that we do better than those who were there before us. So, good luck and good wishes to you.
Thật sự là một vinh dự cho tôi được ở đây với các bạn hôm nay. Tôi gửi lời chúc mừng nồng nhiệt đến tất cả các bạn những người hiện đang học tập và làm việc rất tốt và xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến các bạn mong các bạn sẽ còn học tập và làm việc tốt hơn nữa. Trường đại học này đã có sẵn danh tiếng rất lớn nhưng chúng ta phải luôn luôn thấy rằng chúng ta học tập và làm việc tốt hơn, giỏi hơn những người đi trước chúng ta. Và, chúc may mắn và chúc mọi điều tốt đẹp đến với các bạn.

NGỌC THU

ARTCANDY SHOP NGỌC THU -     Trên   bước   đường   THÀNH   CÔNG , không   có   dấu   chân   của   những   kẻ   LƯỜI   BIẾNG . ...