IELTS_LÀM THẾ NÀO ĐỂ XÁC ĐỊNH KẺ NÓI DỐI = How to Spot a Liar


LÀM THẾ NÀO ĐỂ XÁC ĐỊNH KẺ NÓI DỐIHow to Spot a Liar




However much we may abhor it, deception comes naturally to all living things
Mặc dù hầu hết chúng ta có thể ghê tởm việc lừa dối nhưng nó đến một cách tự nhiên cho mọi loài sinh vật
Birds do it by feigning injury to lead hungry predators away from nesting young
Chim làm điu này bng cách gi v chn thương đ dn dt nhng con thú săn mòi đang đói ra khi làm t ca mình
Spider crabs do it by disguise: adorning themselves with strips of kelp and other debris, they pretend to be something they are not – and so escape their enemies
Các con ghẹ hay lừa bằng cách ngụy trang, chúng tự trang điểm mình bằng những dải tảo bẹ và các mảnh vụn khác, chúng giả vờ làm cái gì đó không phải là mình để thoát khỏi kẻ thù
Nature amply rewards successful deceivers by allowing them to survive long enough to mate and reproduce
Thiên nhiên ban tặng hậu hỉ cho những kẻ lừa gạt thành công bằng cách cho phép chúng tồn tại đủ lâu để giao phối và sinh sản
So it may come as no surprise to learn that human beings- who, according to psychologist Gerald Johnson of the University of South California, or lied to about 200 times a day, roughly one untruth every 5 minutes- often deceive for exactly the same reasons: to save their own skins or to get something they can’t get by other means
Vì vậy, theo nhà tâm lý học Gerald Johnson thuộc Đại học Nam California cho biết, chúng ta không có gì ngạc nhiên khi biết rằng con người có thể nói dối khoảng 200 lần mỗi ngày hay khoảng nói một điều không đúng cứ mỗi 5 phút mà họ thường lừa dối vì cùng những lý do như để bảo vệ da của mình hoặc để có được một cái gì đó mà họ không thể có được bằng các phương tiện khác
But knowing how to catch deceit can be just as important a survival skill as knowing how to tell a lie and get away with it
Nhưng biết cách phát hiện được việc nói dối có thể chỉ là một kỹ năng sống còn quan trọng như biết cách nói dối và trốn tránh nó


A person able to spot falsehood quickly is unlikely to be swindled by an unscrupulous business associate or hoodwinked by a devious spouse
Mt người có th nhn ra s gi di mt cách nhanh chóng s không b la đo bi mt người liên kết kinh doanh vô đo đc hoc b la di bi mt người phi ngu khôn ngoan
Luckily, nature provides more than enough clues to trap dissemblers in their own tangled webs- if you know where to look
May mắn thay, thiên nhiên cung cấp nhiều hơn các đầu mối để phát hiện những kẻ lừa dối trong mạng lưới lộn xộn của riêng mình – nếu bạn biết được nơi để xem xét
By closely observing facial expressions, body language and tone of voice, practically anyone can recognise the tell-tale signs of lying
Bằng cách quan sát chặt chẽ các biểu hiện trên khuôn mặt, ngôn ngữ cơ thể và giọng điệu, thực tế bất cứ ai cũng có thể nhận ra dấu hiệu của việc nói dối
Researchers are even programming computers – like those used on Lie Detector – to get at the truth by analysing the same physical cues available to the naked eye and ear
Các nhà nghiên cứu thậm chí còn lập trình máy tính – tức dùng phần mềm phát hiện nói dối – để có được sự thật bằng cách phân tích các tín hiệu vật lý tương tự có sẵn đối với mắt thường và tai
“With the proper training, many people can learn to reliably detect lies,” says Paul Ekman, professor of psychology at the University of California, San Francisco, who has spent the past 15 years studying the secret art of deception
Paul Ekman, giáo sư tâm lý học tại Đại học California, San Francisco, đã trải qua 15 năm nghiên cứu về nghệ thuật bí mật của việc lừa đảo trong suốt 15 năm qua qua biệt, “Nếu được đào tạo phù hợp, nhiều người có thể học cách phát hiện ra những điều dối trá một cách tin cậy”
In order to know what kind of Lies work best, successful liars need to accurately assess other people’s emotional states
Để biết loại nói dối nào hiệu quả nhất, những kẻ nói dối thành công cần phải đánh giá chính xác tình trạng cảm xúc của người khác
Ackman’s research shows that this same emotional intelligence is essential for good lie detectors, too
Nghiên cứu của Ackman cho thấy trí thông minh cảm xúc này cũng là điều cần thiết cho các máy dò nói dối tốt
The emotional state to watch out for is stress, the conflict most liars feel between the truth and what they actually say and do
Trạng thái cảm xúc cần chú ý là căng thẳng, xung đột mà hầu hết những kẻ nói dối đều cảm thấy giữa sự thật và những gì họ thực sự nói và làm
Even high-tech lie detectors don’t detect lies as such; they merely detect the physical cues of emotions, which may or may not correspond to what the person being tested is saying
Ngay cả các máy dò nói dối bằng công nghệ cao cũng không phát hiện ra những lời dối trá; chúng chỉ đơn thuần là phát hiện ra các tín hiệu cảm xúc vật chất, có thể hoặc không tương ứng với những gì mà người được kiểm tra đang nói
Polygraphs, for instance, measure respiration, heart rate and skin conductivity, which tend to increase when people are nervous – as they usually are when lying
Chẳng hạn, máy đo nhịp tim vật ý đo lường mức hô hấp, nhịp tim và độ dẫn da, thường có xu hướng gia tăng khi người ta lo lắng – những thứ chúng ta hay làm khi nói dối
Nervous people typically perspire, and the salts contained in perspiration conducts electricity
Những người căng thẳng thường ra mồ hôi, và muối chứa trong mồ hôi sẽ dẫn điện


That’s why sudden leap in skin conductivity indicates nervousness – about getting caught, perhaps -which makes, in turn, suggest that someone is being economical with the truth
Đó là lý do tại sao sự nhảy vọt đột ngột về độ dẫn da có thể đo lường được sự lo lắng – và có lẽ có thể phát hiện được – điều này gợi ý rằng ai đó nên thận trọng với sự thật.

On the other hand, it might also mean that the lights in the television.
Mặt khác, điều này cũng có thể bị ảnh hưởng do ánh sáng trong TV.
Studio are too hot- which is one reason polygraph tests are inadmissible in court.
Phòng thu hình của truyền hình quá nóng – đó là một trong những lý do khiến các bài kiểm tra về nhịp tim không thể chấp nhận tại tòa án.
“Good lie detectors don’t rely on a single thing” says Ekma, “but interpret clusters of verbal and non-verbal clues that suggest someone might be lying”
Ekma nói, “Những máy dò nói dối tốt không dựa vào một điều duy nhất, nhưng giải thích các nhóm mạo từ bằng lời nói và các chứng cứ không lời có thể đề nghị ai đó đang nói dối”
The clues are written all over the face
Manh mối này nằm ngay trên mặt
Because the musculature of the face is directly connected to the areas of the brain that processes emotion, the countenance can be a window to the soul
Bởi vì cơ trên khuôn mặt trực tiếp kết nối với các vùng não xử lý vùng cảm xúc, sắc mặt này có thể là cửa sổ cho tâm hồn
Neurological studies even suggest that genuine emotions travel different pathways through the brain than insincere ones
Các nghiên cứu thần kinh thậm chí còn gợi ý rằng những cảm xúc chính xác đi theo những  đường khác nhau thông qua bộ não hơn là những thứ giả dối khác
If a patient paralyzed by stroke on one side of the face, for example, is asked to smile deliberately, only the mobile side of the mouth is raised
Ví dụ nếu một bệnh nhân bị liệt do đột quỵ một bên mặt được yêu cầu mỉm cười một cách cố ý thì chỉ có một bên di động của miệng được nâng lên
But tell that same person a funny joke, and the patient breaks into a full and spontaneous smile
Nhưng nếu kẻ 1 chuyện cười với cùng một người thì bệnh nhân sẽ cười đầy đủ và tự phát


Very few people – most notably, actors and politicians – are able to consciously control all of their facial expressions
Rất ít người – nhất là các diễn viên và chính trị gia – có thể kiểm soát một cách có ý thức tất cả các biểu hiện trên khuôn mặt của họ
Lies can often be caught when the liars true feelings briefly leak through the mask of deception
Kẻ lừa dối thường có thể bị phát hiện khi những cảm xúc chân thật của những người nói dối sau một thời gian ngắn bị rò rỉ qua lớp mặt nạ lừa dối
“We don’t think before we feel”, Ekman says
“Chúng ta thường không suy nghĩ trước khi chúng ta cảm thấy”, Ekman nói
“Expressions tend to show up on the face before we’re even conscious of experiencing an emotion”
“Biểu hiện thường xuất hiện trên khuôn mặt trước khi chúng ta thậm chí có ý thức trải nghiệm về một cảm xúc nào đó”
One of the most difficult facial expressions to fake – or conceal, if it’s genuinely felt – is sadness
Một trong những biểu hiện khuôn mặt khó khăn nhất để giả mạo hay che giấu, nếu nó thực sự cảm nhận được – là nỗi buồn
When someone is truly sad, the forehead wrinkles with grief and the inner corners of the eyebrows are pulled up
Khi ai đó thực sự buồn, trán sẽ nhăn lại vì nỗi đau và những góc bên trong của lông mày bị kéo lên
Fewer than 15% of the people Ekman tested were able to produce this eyebrow movement voluntarily
Ít hơn 15% số người Ekman thử nghiệm có thể tạo ra cử động lông mày một cách tự giác
By contrast, the lowering of the eyebrows associated with an angry scowl can be replicated at will but almost everybody
Ngược lại, việc hạ thấp lông mày liên quan đến một cái cau mày giận dữ có thể được nhân rộng theo ý muốn nhưng hầu hết mọi người thì không làm được
“ If someone claims they are sad and the inner corners of their eyebrows don’t go up, Ekmam says, the sadness is probably false”
“Nếu ai đó tuyên bố họ buồn và những góc cạnh bên trong lông mày không giương lên, Ekmam nói, thì nỗi buồn đó có lẽ là sai”
The smile, on the other hand, is one of the easiest facial expressions to counterfeit
Mặt khác, nụ cười là một trong những biểu hiện khuôn mặt dễ dàng nhất để giả mạo
It takes just two muscles - the zygomaticus major muscles that extend from the cheekbones to the corners of the lips- to produce a grin
Nó chỉ cần hai cơ – các cơ quan lớn zygomaticus mở rộng từ xương má đến các góc của môi – để tạo ra một nụ cười
But there’s a catch
Nhưng chúng ta có thể phát hiện được
A genuine smile affects not only the corners of the lips but also the orbicularis oculi, the muscle around the eye that produces the distinctive “crow’s feet” associated with people who laugh a lot
Nụ cười chân thật không chỉ ảnh hưởng đến các góc của môi mà còn là mắt vú orbicularis, cơ quanh mắt tạo ra những “bàn chân quạ” đặc biệt liên quan đến những người cười rất nhiều
A counterfeit grin can be unmasked if the corners of the lips go up, the eyes crinkle, but the inner corners of the eyebrows are not lowered, a movement controlled by the orbicularis oculi that is difficult to fake
Một nụ cười giả mạo có thể bị lột mặt nạ nếu các góc của môi giương lên, mắt nhăn nheo, nhưng các góc bên trong của lông mày không bị hạ xuống, một chuyển động có kiểm soát bởi cơ orbicularis oculi thì rất khó để giả mạo
The absence of lowered eyebrows is one reason why the smile looks so strained and stiff
Sự vắng mặt của lông mày hạ xuống là một trong những lý do tại sao nụ cười trông căng thẳng và cứng



IELTS_LỊCH SỬ CỦA POSTER = The history of the poster

LỊCH SỬ CỦA POSTER 

= The history of the poster




The appearance of the poster has changed continuously over the past two centuries.


The appearance of the poster has changed continuously over the past two centuries.
Sự xuất hiện của áp phích quảng cáo đã thay đổi liên tục trong suốt hai thế kỷ qua.
The first posters were known as ‘broadsides’ and were used for public and commercial announcements.
Các áp phích đầu tiên được gọi là ‘cuộc tấn công’ và được sử dụng cho các thông báo công cộng và thương mại.
Printed on one side only using metal type, they were quickly and crudely produced in large quantities.
Được in trên một mặt chỉ sử dụng loại kim loại, chúng được sản xuất nhanh chóng và thô ráp với số lượng lớn.
As they were meant to be read at a distance, they required large lettering.
Vì chúng được đọc ở cách xa, nên chúng cần chữ lớn.
There were a number of negative aspects of large metal type.
Có một số khía cạnh tiêu cực của tấm kim loại lớn này.
It was expensive, required a large amount of storage space and was extremely heavy.
Nó tốn kém, đòi hỏi một lượng lớn không gian lưu trữ và rất nặng.
If a printer did have a collection of large metal type, it was likely that there were not enough letters.
Nếu một máy in có một bộ các miếng kim loại lớn, có lẽ rằng cũng không có đủ chữ cái.
So printers did their best by mixing and matching styles.
Vì vậy, máy in đã cố gắng hết sức bằng cách phối trộn và kết hợp các kiểu.
Commercial pressure for large type was answered with the invention of a system for wood type production.
Áp lực thương mại đối với loại máy đánh chữ lớn đã được trả lời bằng việc phát minh ra một hệ thống sản xuất gỗ.
In 1827, Darius Wells invented a special wood drill – the lateral router – capable of cutting letters on wood blocks.
Năm 1827, Darius Wells đã phát minh ra một loại khoan gỗ đặc biệt – bộ định tuyến bên – có khả năng khắc các chữ cái trên các khối gỗ.
The router was used in combination with William Leavenworth’s pantograph (1834) to create decorative wooden letters of all shapes and sizes.
Router đã được sử dụng kết hợp với máy vẽ truyền của William Leavenworth (1834) để tạo ra các chữ cái bằng gỗ trang trí với tất cả các hình dạng và kích cỡ.
The first posters began to appear, but they had little colour and design; often wooden type was mixed with metal type in a conglomeration of styles.
Các áp phích đầu tiên bắt đầu xuất hiện, nhưng chúng có ít màu sắc và thiết kế; Thường là loại gỗ đã được trộn với loại kim loại trong sự kết hợp các kiểu cách.
A major development in poster design was the application of lithography, invented by Alois Senefelder in 1796, which allowed artists to hand-draw letters, opening the field of type design to endless styles.
Một sự phát triển lớn trong thiết kế áp phích là ứng dụng in thạch bản, được Alois Senefelder phát minh năm 1796, cho phép các nghệ sỹ vẽ tay, mở ra lĩnh vực thiết kế với vô vàn các phong cách.
‘The method involved drawing with a greasy crayon onto finely surfaced Bavarian limestone and offsetting that image onto paper.
Phương pháp này vẽ bằng bút chì màu trơn lên đá vôi Bavaria đã xử lý bề mặt và in hình ảnh đó lên giấy.
This direct process captured the artist’s true intention; however, the final printed image was in reverse.
Tuy nhiên quá trình trực tiếp này đã thu hút được mục đích thực sự của nghệ sĩ; hình ảnh in cuối cùng đã bị ngược.
The images and lettering needed to be drawn backwards, often reflected in a mirror or traced on transfer paper .
Các hình ảnh và chữ cái cần được vẽ về phía sau, thường được phản chiếu trong một tấm gương hoặc in dấu trên giấy chuyển tiếp.
As a result of this technical difficulty, the invention of the lithographic process had little impact on posters until the 1860s, when Jules Cheret came up with his ‘three-stone lithographic process’.
Do sự khó khăn của kỹ thuật này, việc phát minh ra quy trình in thạch bản có tác động nhỏ đến áp phích cho đến những năm 1860, khi Jules Cheret đưa ra quy trình in thạch bản ba đá.
This gave artists the opportunity to experiment with a wide spectrum of colours.
Điều này cho phép các nghệ sĩ có cơ hội để thử nghiệm với nhiều màu sắc.
Although the process was difficult, the result was remarkable, with nuances of colour impossible in other media even to this day.
Mặc dù quá trình này khó khăn với những gam màu sắc không khả dụng trong các phương tiện truyền thông khác thậm chí cho đến ngày nay, nhưng kết quả thì đáng chú ý.
The ability to mix words and images in such an attractive and economical format finally made the lithographic poster a powerful innovation.
Khả năng kết hợp các từ và hình ảnh theo một định dạng hấp dẫn và kinh tế cuối cùng đã làm một sự đổi mới mạnh mẽ cho áp phích in bằng thạch bản.
Starting in the 1870s, posters became the main vehicle for advertising prior to the magazine era and the dominant means of mass communication in the rapidly growing cities of Europe and America.
Bắt đầu từ những năm 1870, áp phích trở thành phương tiện chính cho quảng cáo trước thời đại tạp chí và các phương tiện truyền thông đại chúng trong các thành phố đang phát triển ở châu Âu và Mỹ.
Yet in the streets of Paris, Milan and Berlin, these artistic prints were so popular that they were stolen off walls almost as soon as they were hung.
Thế nhưng, trên đường phố Paris, Milan và Berlin, các bản in nghệ thuật này rất phổ biến đến nỗi hầu như chúng bị đánh cắp ngay khi chúng được treo.
Cheret, later known as ‘the father of the modern poster’, organised the first exhibition of posters in 1884 and two years later published the first book on poster art.
Cheret, sau này được gọi là ‘cha đẻ của áp phích hiện đại’, đã tổ chức triển lãm đầu tiên của áp phích năm 1884 và hai năm sau xuất bản cuốn sách đầu tiên về nghệ thuật áp phích.
He quickly took advantage of the public interest by arranging for artists to create posters, at a reduced size, that were suitable for in-home display.
Ông nhanh chóng tận dụng sự quan tâm của công chúng bằng cách sắp xếp cho các nghệ sỹ tạo ra áp phích, với kích thước nhỏ hơn, thích hợp cho việc trưng bày tại nhà.
Thanks to Cheret, the poster slowly took hold in other countries in the 1890s and came to celebrate each society’s unique cultural institutions : the cafe in France, the opera and fashion in Italy, festivals in Spain, literature in Holland and trade fairs in Germany.
Nhờ Cheret, áp phích dần dần định vị ở các nước khác trong những năm 1890 và để kỷ niệm các phong tục văn hoá độc đáo của mỗi xã hội: quán cà phê ở Pháp, nhà hát và thời trang ở Ý, các lễ hội ở Tây Ban Nha, văn học ở Hà Lan và các hội chợ thương mại ở Đức.
The first poster shows were held in Great Britain and Italy in 1894, Germany in 1896 and Russia in 1897.
Những buổi biểu diễn áp phích đầu tiên được tổ chức tại Great Anh và Ý vào năm 1894, Đức năm 1896 và Nga vào năm 1897.
The most important poster show ever, to many observers, was held in Reims, France, in 1896 and featured an unbelievable 1,690 posters arranged by country.
Buổi trưng bày áp phích quan trọng nhất từng có, với nhiều người xem, được tổ chức tại Reims, Pháp, năm 1896 và đại diện cho 1,690 áp phích nổi bật theo quốc gia.
In the early 20th century, the poster continued to play a large communication role and to go through a range of styles.
Vào đầu thế kỷ 20, áp phích tiếp tục đóng vai trò truyền thông lớn và trải qua hàng loạt các kiểu cách.
By the 1950s, however, it had begun to share the spotlight with other media, mainly radio and print.
Trước những năm 1950, tuy nhiên, nó đã bắt đầu san sẻ sự nổi bật với các phương tiện truyền thông khác, chủ yếu là phát thanh và ấn phẩm.
By this time, most posters were printed using the mass production technique of photo offset, which resulted in the familiar dot pattern seen in newspapers and magazines.
Bởi thời gian này, hầu hết các áp phích được in bằng kỹ thuật in ảnh sản xuất hàng loạt, dẫn đến kiểu mẫu tương tự như được thấy trong các tờ báo và tạp chí.
In addition, the use of photography in posters, begun in Russia in the twenties, started to become as common as illustration.
Ngoài ra, việc sử dụng hình ảnh trong áp phích, bắt đầu ở Nga vào những năm 20, bắt đầu trở nên phổ biến như minh họa.
In the late fifties, a new graphic style that had strong reliance on typographic elements in black and white appeared.
Vào cuối những năm năm mươi, một phong cách đồ họa mới phụ thuộc mạnh mẽ vào yếu tố chữ in đen và trắng đã xuất hiện.
The new style came to be known as the International Typographic Style.
Phong cách mới này được biết đến với tên gọi Kiểu chữ in quốc tế.
It made use of a mathematical grid, strict graphic rules and black-and-white photography to provide a clear and logical structure.
Nó đã sử dụng một mạng lưới thuật toán, quy tắc đồ họa chặt chẽ và thuật ảnh đen trắng để cung cấp một cấu trúc rõ ràng và hợp lý.
It became the predominant style in the world in the 1970s and continues to exert its influence today.
Nó đã trở thành phong cách chiếm ưu thế trên thế giới những năm 1970 và tiếp tục gây ảnh hưởng ngày nay.
It was perfectly suited to the increasingly international post-war marketplace, where there was a strong demand for clarity.
Nó hoàn toàn phù hợp với thị trường quốc tế ngày càng trở nên cạnh tranh, nơi có đòi hỏi cao về sự rõ ràng.
This meant that the accessibility of words and symbols had to be taken into account.
Điều này có nghĩa là khả năng tiếp cận của các từ và ký hiệu đã được xem xét.
Corporations wanted international identification, and events such as the Olympics called for universal solutions, which the Typographic Style could provide.
Các tập đoàn muốn nhận diện quốc tế, và các sự kiện như Thế vận hội kêu gọi các giải pháp toàn cầu, điều mà kiểu chữ in có thể cung cấp.
However, the International Typographic Style began to lose its energy in the late 1970s.
Tuy nhiên, Kiểu chữ in quốc tế bắt đầu mất tầm ảnh hưởng vào cuối những năm 1970.
Many criticised it for being cold, formal and dogmatic.
Nhiều người chỉ trích nó vì đơn điệu, hình thức và khuôn mẫu.
A young teacher in Basel, Wolfgang Weingart, experimented with the offset printing process to produce posters that appeared complex and chaotic, playful and spontaneous – all in stark contrast to what had gone before.
Một giáo viên trẻ ở Basel, Wolfgang Weingart, đã thử nghiệm với quy trình in để tạo ra các áp phích có vẻ phức tạp và hỗn độn, vui tươi và thanh thoát – tất cả đều trái ngược với những gì đã làm trước đó.
Weingart’s liberation of typography was an important foundation for several new styles.
Sự giải phóng kiểu chữ của Weingart là một nền tảng quan trọng cho một số phong cách mới.
These ranged from Memphis and Retro to the advances now being made in computer graphics.
Chúng bao gồm từ Memphis và Retro đến những tiến bộ hiện đang được thực hiện trong đồ họa máy tính.

Translated by Ly Nguyen


NGỌC THU

ARTCANDY SHOP NGỌC THU -     Trên   bước   đường   THÀNH   CÔNG , không   có   dấu   chân   của   những   kẻ   LƯỜI   BIẾNG . ...