Young children's sense of identity: Khả năng nhận thức ở trẻ nhỏ

 

A

Ở trẻ nhỏ, ý thức về bản thân được phát triển theo từng cấp độ khác nhau.
A sense of self develops in young children by degrees.

Quá trình trên có được hiểu dễ dàng hơn khi chúng xem xét bản thân với vai trò chủ thể và với vai trò khách thể.
The process can usefully be thought of in terms of the gradual emergence of two somewhat separate features: the self as a subject, and the self as an object.

Vào năm 1892, William James đã đưa ra khái niệm phân biệt này và những người đương thời của ông như Charles Cooley đã thêm vài ý kiến để tiếp tục tranh luận về vấn đề trên.
William James introduced the distinction in 1892, and contemporaries of his, such as Charles Cooley, added to the developing debate.

Kể từ đó các nhà tâm lý học đã tiếp tục xây dựng dựa trên lý thuyết này.
Ever since then psychologists have continued building on the theory.

B

Theo James, bước đầu tiên để một đứa trẻ có thể tự nhận biết là khả năng nhận thức sự tồn tại của mình.
According to James, a child's first step on the road to self-understanding can be seen as the recognition that he or she exists.

Đây là một khía cạnh của bản thân mà ông tự đặt tên là “bản thân với vai trò chủ thể” và ông đã nghiên cứu nó với nhiều yếu tố khác nhau.
This is an aspect of the self that he labelled 'self-as-subject', and he gave it various elements.

Chúng bao gồm việc nhận thức về các các cơ quan của chính mình như năng lượng để hoạt động và nhận thức về tính khác biệt của mình với người khác.
These included an awareness of one's own agency (for example: one's power to act), and an awareness of one's distinctiveness from other people.

Những tính năng này dần dần sẽ giúp trẻ khám phá thế giới xung quang và tương tác với những người chăm sóc chúng.
These features gradually emerge as infants explore their world and interact with caregivers.

Năm 1902 Cooley cho rằng khả năng tự xem mình là chủ thể chủ yếu có liên quan chủ yếu đến khả năng thể hiện quyền lực.
Cooley (1902) suggested that a sense of the self-as-subject was primarily concerned with being able to exercise power.

Ông đề cho rằng các ví dụ sớm nhất của việc này là khi trẻ cố găng kiểm soát các vật thể vật lý như đồ chơi hay tay chân của chính mình.
He proposed that the earliest examples of this are an infant's attempts to control physical objects, such as toys or his or her own limbs.

Tiếp theo đó là các nỗ lực để ảnh hưởng đến hành vi của người khác.
This is followed by attempts to affect the behaviour of other people.

Ví dụ, trẻ hiểu rằng để phản ứng lại ai đó thì chúng sẽ khóc hay cười.
For example, infants learn that when they cry or smile someone responds to them.

C

Một nguồn thông tin mạnh mẽ khác để trẻ có thể tác động đến thế giới xung quanh chúng là khi trẻ bắt chước người khác.
Another powerful source of information for infants about the effects they can have on the world around them is provided when others mimic them.

Nhiều bậc phụ huynh đã dành rất nhiều thời gian, đặc biệt là trong những tháng đầu để bắt chước các âm thanh và biểu hiện của con họ.
Many parents spend a lot of time, particularly in the early months, copying their infant's vocalizations and expressions.

Ngoài ra, trẻ nhỏ rất thích soi gương, nơi chúng có thể xem các cử động của mình hoạt động ra sao.
In addition, young children enjoy looking in mirrors, where the movements they can see are dependent upon their own movements.

Việc này không phải để nói là trẻ có thể nhận ra các phản xạ được hình ảnh của mình vì đó là một sự phát triển về sau này.
This is not to say that infants recognize the reflection as their own image (a later development).

Tuy nhiên, năm 1979 Lewis và Brooks-Gunn cho rằng, từ những cử chỉ tình cờ mà bọn trẻ thấy được trên gương chứng tỏ trẻ ngày càng nhận biết nhiều hơn, giúp chúng nhận thức rằng chúng khác biệt với những người chung quanh.
However, Lewis and Brooks-Gunn (1979) suggest that infants' developing understanding that the movements they see in the mirror are contingent on their own, leads to a growing awareness that they are distinct from other people.

Đó là vì bọn trẻ biết là chỉ có mình mới có thể thay đổi hình ảnh phản chiếu trong gương.
This is because they, and only they, can change the reflection in the mirror.

D

Hiểu được điều này sẽ giúp bọn trẻ có được những nhân tố tích cực để tiếp tục phát triển các kỹ năng khi chơi với những đứa trẻ khác.
This understanding that children gain of themselves as active agents continues to develop in their attempts to co-operate with others in play.

Dunn (1988) chỉ ra rằng các mối quan hệ và tương tác hàng ngày như vậy sẽ giúp trẻ hình thành nhận thức bản thân.
Dunn (1988) points out that it is in such day-to-day relationships and interactions that the child's understanding of his or herself emerges.

Tuy nhiên các điều tra thực nghiệm về việc xem mình như chủ thể ở trẻ nhỏ rất ít do các nhà nghiên cứu gặp nhiều khó khăn về giao tiếp, thậm chí ngay cả khi trẻ nhỏ có thể phản ánh kinh nghiệm của mình, chúng cũng không thể diễn tả một cách trực tiếp được.
Empirical investigations of the self-as-subject in young children are, however, rather scarce because of difficulties of communication: even if young infants can reflect on their experience, they certainly cannot express this aspect of the self directly.

E

Khi trẻ đã có được một mức độ tự nhận thức nhất định thì chúng bắt đầu tự đặt bản thân mình trong hầu hết các hoạt động và điều này đóng một vai trò quan trọng trong việc định nghĩa 'bản thân mình' là duy nhất.
Once children have acquired a certain level of self-awareness, they begin to place themselves in a whole series of categories, which together play such an important part in defining them uniquely as 'themselves'.

Bước thứ hai này trong việc phát triển khả năng tự nhận thức được James gọi “xem mình như khách thể".
This second step in the development of a full sense of self is what James called the 'self-as-object'.

Việc cá nhân trẻ được nhiều người để ý chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố xã hội, vì việc này được tạo thành từ các vai trò xã hội như sinh viên, anh em, đồng nghiệp và các đặc tính thừa hưởng từ việc so sánh hay tương tác với người khác như sự tin cậy, nhút nhát, khả năng thể thao.
This has been seen by many to be the aspect of the self which is most influenced by social elements, since it is made up of social roles (such as student, brother, colleague) and characteristics which derive their meaning from comparison or interaction with other people (such as trustworthiness, shyness, sporting ability).

F

Cooley và các nhà nghiên cứu khác cho rằng giữa sự hiểu biết của một người với sự hiểu biết của người khác có mối quan hệ rất gần gũi.
Cooley and other researchers suggested a close connection between a person's own understanding of their identity and other people's understanding of it.

Cooley tin rằng chúng ta nên xây dựng khả năng nhận thức từ các phản ứng của người khác đối với chúng ta, và từ cách nhìn của chúng ta khi tin tưởng người khác.
Cooley believed that people build up their sense of identity from the reactions of others to them, and from the view they believe others have of them.

Ông Cooley gọi việc xem bản thân dưới dạng khách thể là “tự soi gương", vì chúng ta tự thấy bản thân mình khi chúng ta được phản ánh ở những người khác.
He called the self-as-object the 'looking-glass self', since people come to see themselves as they are reflected in others.

Mead (1934) thậm chí còn đi xa hơn, và cho rằng bản thân với thế giới xã hội gắn bó chặt chẽ ràng buộc với nhau: 'Bản thân là một cấu trúc cần thiết của xã hội, và nó phát sinh khi chúng ta có kinh nghiệm xã hội vì nó là không thể tự phát sinh ngoài kinh nghiệm xã hội được’'.
Mead (1934) went even further, and saw the self and the social world as inextricably bound together: 'The self is essentially a social structure, and it arises in social experience, it is impossible to conceive of a self arising outside of social experience.

G

Lewis và Brooks-Gunn lập luận rằng cột mốc phát triển quan trọng là khi trẻ bắt đầu nhận ra bản thân mình một cách trực quan mà không cần phải quan sát các cử động của mình một cách tình cờ.
Lewis and Brooks-Gunn argued that an important developmental milestone is reached when children become able to recognize themselves visually without the support of seeing contingent movement.

Nhận thức này xảy ra khoảng lúc trẻ được 2 tuổi.
This recognition occurs around their second birthday.

Trong một thí nghiệm, Lewis và Brooks-Gunn (1979) đã thấm một ít bột màu đỏ trên mũi của trẻ khi chúng chơi ở phía trước của một tấm gương, và sau đó quan sát mức độ thường xuyên khi trẻ chạm vào mũi.
In one experiment, Lewis and Brooks-Gunn (1979) dabbed some red powder on the noses of children who were playing in front of a mirror, and then observed how often they touched their noses.

Các nhà tâm lý học lý luận rằng nếu trẻ biết những gì chúng thường thấy thì chúng sẽ ngạc nhiên bởi các nhãn dán màu đỏ bất thường và trẻ sẽ chạm vào nó.
The psychologists reasoned that if the children knew what they usually looked like, they would be surprised by the unusual red mark and would start touching it.

Mặt khác, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng trẻ em từ 15 đến 18 tháng thường không thể nhận ra chính mình trừ khi xuất hiện các dấu hiệu khác như các cử động mà chúng thấy trước gương.
On the other hand, they found that children of 15 to 18 months are generally not able to recognize themselves unless other cues such as movement are present.

H

Cuối cùng, có lẽ các biểu hiện dễ nhận biết nhất về việc tự nhận thức ở trẻ em thường phổ biến ở độ tuổi 18 tháng đển 3 tuổi.
Finally, perhaps the most graphic expressions of self-awareness in general can be seen in the displays of rage which are most common from 18 months to 3 years of age.

Trong một nghiên cứu dọc (theo thời gian) của các nhóm ba hoặc bốn trẻ, Bronson (1975) nhận thấy rằng cường độ của sự thất vọng và tức giận khi bất đồng của trẻ tăng mạnh trong độ tuổi từ 1 đến 2 tuổi.
In a longitudinal study of groups of three or four children, Bronson (1975) found that the intensity of the frustration and anger in their disagreements increased sharply between the ages of 1 and 2 years.

Thông thường, những bất đồng của trẻ xuất hiện khi chúng tranh giành đồ chơi với nhau và trẻ có vẻ muốn tranh chấp để được quyền sở hữu đồ chơi đó hơn là muốn chơi với nó (tư duy sở hữu xuất hiện).
Often, the children's disagreements involved a struggle over a toy that none of them had played with before or after the tug-of-war: the children seemed to be disputing ownership rather than wanting to play with it.

Mặc dù việc này có thể ít được ghi nhận ở các xã hội khác nhưng sự liên kết giữa ý nghĩa của 'bản thân' và 'sở hữu' là một đặc tính đáng chú ý của trẻ em ở các xã hội phương Tây.
Although it may be less marked in other societies, the link between the sense of 'self' and of 'ownership' is a notable feature of childhood in Western societies.

Information theory - the big idea: Lý thuyết thông tin - Ý tưởng lớn


Information theory lies at the heart of everything-from DVD players and genetic code of DNA to the physics of universe at its most fundamental. 

Lý thuyết thông tin nằm ở trong tim của mọi vật từ đầu đĩa DVD và mã di truyền ADN tới các vật thể đơn giản nhất trong vũ trụ. 

 

It has been central to the development of the science of communication, which enables data to be sent electronically and has therefore had a major impact on our life.

Nó đã là trung tâm của sự phát triển của khoa học truyền thông, cho phép dữ liệu được gửi bằng điện tử và do đó có tác động to lớn đến cuộc sống của chúng ta.

 
A

In April 2002 an event took place which demonstrated one of the many applications of information theory.

Vào tháng 4 năm 2002, 1 sự kiện đã tổ chức chứng minh một trong nhiều ứng dụng của lý thuyết thông tin.

 

The space probe, Voyager I, launched in 1977, had sent back spectacular images of Jupiter and Santurn and then soared out of Solar System on one-way mission to the stars.

Tàu du hành vũ trụ, Voyager I, đưa ra năm 1977, đã gửi trở lại các hình ảnh kì lạ của sao Mộc và sao Thổ và sau đó bay ra ngoài hệ mặt trời với sứ mệnh là tới các ngôi sao.

 

After 25 years of exposure to the freezing temperatures of deep space, the probe was beginning to show its age.

Sau 25 năm tiếp xúc với nhiệt độ đông cứng của không gian sâu thẳm, tàu vũ trụ đã bắt đầu cho thấy thời kì của nó.

 

Sensors and circuits were on the brink of failing and NASA experts realised that they had to do something or lose contact with their probe forever.

Các cảm biến và mạch đã đứng trên bờ vực thất bại và các chuyên gia NASA đã nhận ra rằng chúng ta phải làm gì đó hoặc sẽ mất con tàu mãi mãi.

 

The solution was to get a message to Voyager I to instruct it to use spares to change the failing parts.

Giải pháp là gửi 1 thông điệp tới tàu Voyager I để hướng dẫn nó sử dụng các phần dự trữ để sửa chữa các bộ phận hỏng.

 

With the probe 12 billion kilometres from Earth, this was not easy task.

Với 1 con tàu cách Trái đất 12 tỉ km, thì đó là bài toán không hề dễ.

 

By means of a radio dish belonging to NASA’s Deep Space Network, the message was sent out into depths of space.

Bằng một chiếc đĩa vô tuyến thuộc Mạng Không gian Vũ trụ của NASA, thông điệp đã được gửi đi vào khoảng không của không gian.

 

Even travelling at the speed of light, it took over 11 hours to reach its target, beyond the orbit of Pluto.

Dù cho hành trình đi với tốc độ ánh sáng, nó cũng mất hơn 11 tiếng để tới điểm mong muốn, lớn hơn quỹ đạo của sao Diêm Vương.

 

Yet, incredibly, the little probe managed to hear the faint call from its home planet, and successfully made the switchover.

Tuy nhiên, thật kì diệu, chiếc tàu vũ trụ nhỏ bé đã xoay sở để nghe tiếng gọi yếu ớt từ hành tinh nó, và đã thành công việc chuyển đổi.

 
B

It was the longest - distance repair job in history, and a triumph for the NASA engineers.

Đó là công việc sửa chữa với quãng đường xa nhất trong lịch sử, và là một thắng lợi cho các kỹ sư NASA. 

 

But it also highlighted the astonishing power of the techniques developed by American communication engineer Claude Shannon, who had died just a year earlier.

Nhưng nó cũng đánh dấu sức mạnh đáng ngạc nhiên của kỹ thuật phát triển bởi kỹ sư truyền thông Mỹ Claude Shannon, người mới mất một năm trước.

 

Born in 1916 in Petoskey, Michigan, Shannon showed an early talent for Maths and for building gadgets, and made breakthroughs in the foundations of computer technology when a student.

Sinh năm 1916 tại Petoskey, Michigan, Shannon đã biểu hiện là một tài năng sớm về toán học và các công cụ xây dựng, và mang đến sự phát triển quan trọng trong nền tảng của kỹ thuật máy tính khi là một sinh viên.

 

While at Bell labratories, Shannon developed Information Theory, but shunned the resulting acclaim.

Trong khi tại các phòng thí nghiệm Bell, Shannon đã phát triển lý thuyết thông tin, thì kết quả đó lại không được ca ngợi.

 

In the 1940s, he single – handedly created an entire science of communication which has since inveigled its way into a host of applications, from DVDs to satelite communications to bar codes-any area, in short, where data has to be conveyed rapidly yet accuratedly.

Trong những năm 1940, ông ấy tự tạo ra toàn bộ khoa học truyền thông cái mà từ đó truyền tải các ứng dụng của nó từ DVD đến các vệ tinh tới các vạch mã, hay bất kì nơi nào, nơi mà dữ liệu được truyền tải nhanh chóng mà chính xác. 

 

C

This all seems light years away from the down-to-earth uses Shannon originally had for his work, which began when he was a 22-year-old graduate engineering student at the prestigious Massachusetts Institute of Technology in 1939.

Tất cả điều đó dường như xa rời nhiều năm ánh sáng từ những cách sử dụng viển vông của Shannon bắt nguồn việc làm của ông ấy, bắt đầu khi ông ấy là một sinh viên kỹ thuật 22 tuổi tốt nghiệp tại Học viện kỹ thuật Massachusetts nổi tiếng năm 1939.

 

He set out with an apparently simple aim: to pin down the precise meaning of concept of “information”.

Ông đã thiết lập một mục đích dường như rất đơn giản: định nghĩa ý nghĩa chính xác của khái niệm Thông tin.

 

The most basic form of information, Shannon argued, is whether something is true or false- which can captured in the binary unit, or “bit”, of the form 1 or 0.

Hình thức cơ bản nhất của thông tin, Shannon lập luận, là liệu có cái gì là đúng hay sai, cái mà có thể năm bắt được trong đơn vị nhị phân, hay ‘bit’, ở dạng 1 hay 0.

 

Having indentified this fundamental unit, Shannon set about defining otherwise vague ideas about information and how to transmit it from place to place.

Sau khi xác định những đơn vị cơ bản này, Shannon đã thiết lập định nghĩa khác những ý tưởng  mơ hồ liên quan đến thông tin và làm thế nào để truyền thông tin từ địa điểm này tới địa điểm khác.

 

In the process, he discovered something surprising: it is always possible to guarantee information will get through random interference-“noise”- intact.

Trong quá trình này, ông ấy đã khám phá ra những thứ đáng ngạc nhiên: đó là luôn luôn có thể để đảm bảo thông tin sẽ bị can thiệp ngẫu nhiên – ‘tiếng ồn’ – còn nguyên vẹn.

 

D

Noise usually means unwanted sounds which interfere with genuine information.

Tiếng ồn thường được hiểu là âm thanh không mong muốn gây cản trở các thông tin chính xác.

 

Information Theory generalises this idea via theorems that capture the effects of noise with mathematical precision.

Lý thuyết thông tinh đã khái quát hóa ý tưởng này qua các định lý nắm bắt những ảnh hưởng của tiếng ồn tới độ chính xác toán học.

 

In particular, Shannon showed that noise sets a limit on the rate at which information can pass along communication channels while remaining error-free.

Cụ thể, Shannon đã cho thấy tiếng ồn đặt ra một giới hạn tốc độ thông tin có thể truyền qua kênh truyền thông và duy trì việc không có lỗi.

 

This rate depends on the relative strengths of the signal and noise travelling down the communication channel, and its on capacity (its ‘bandwidth’).

Tốc độ này phụ thuộc vào cường độ tương đối của tín hiệu và tiếng ồn đi xuống các kênh truyền thông, và dung lượng của nó (dãy sóng của nó).

 

The resulting limit, given in units of bits per second, is the absolute maximum rate of error-free communication given signal strengths and noise level.

Giới hạn kết quả, tính theo đơn vị bit/giây, tỷ lệ hoàn toàn tuyệt đối của việc truyền đạt không có lỗi cho cường độ tín hiệu và mức độ tiếng ồn.

 

The trick, Shannon showed, is to find ways of packaging up – coding – information to cope with the ravages of noise, while staying within the information – carrying capacity – bandwidth – of the communication system being used.

Bí quyết của Shannon cho thấy là tìm cách đóng gói - "mã hóa" - thông tin để đối phó với sự tàn phá của tiếng ồn, trong khi vẫn ở trong thông tin - "khả năng vận chuyển" – ‘dãy sóng’- của hệ thống truyền thông đang được sử dụng.

 

E

Over the years scientists have devised many coding methods, and they have proved crucial in many technological feats.

Trong những năm qua, các nhà khoa học đã phát minh nhiều cách mã hóa và họ chứng minh được tầm quan trọng trong nhiều thành tựu kỹ thuật.

 

The Voyager spacecraft transmitted data using codes which added one extra bit for every single bit of information; the result was an error rate of just one bit in 10000 – and stunningly clear pictures of the planets.

Con tàu vũ trụ Voyager đã truyền dữ liệu bằng cách sử dụng mã số đã thêm một bit cho mỗi bit thông tin; kết quả là tỷ lệ lỗi chỉ là một chút trong 10,000 và hình ảnh rõ ràng rõ ràng của các hành tinh.

 

Other code have become part of everyday life – such as the Universe Product Code, or bar code, which uses a simple error – defecting system that ensures supermarket check – out lasers can read the price even on, say, the crumbled bag crisps.

Các mã khác đã trở thành một phần của cuộc sống hàng ngày - chẳng hạn như mã sản phẩm chung hoặc mã vạch, sử dụng một hệ thống phát hiện lỗi đơn giản để đảm bảo rằng các laser kiểm tra siêu thị có thể đọc được giá cả, ví dụ như một túi crisps crumpled.

 

As recently as 1993, engineers made a major breakthrough by discovering so – called turbo codes – which come very close to Shannon ‘ ultimate limit for the maximum rate that data can be transmitted reliably, and now play a key role in the mobile videophone revolution.

Gần đây vào năm 1993, các kỹ sư đã thực hiện một bước đột phá lớn bằng cách khám phá ra cái gọi là các mã turbo – cái mà đến rất gần với giới hạn tối đa của Shannon cho tốc độ tối đa mà dữ liệu có thể được truyền một cách đáng tin cậy và giờ đây đóng một vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng điện thoại di động.

 

F

Shannon also laid the foundation of more efficient ways of storing information, by stripping out superfluous (‘rebundant’) bits data which contributed little real information.

Shannon cũng đặt nền móng cho cách lưu trữ thông tin hiệu quả hơn, bằng cách loại bỏ các bit không cần thiết ('dư thừa') khỏi các dữ liệu có ít thông tin thực tế.

 

As mobile phone text messages like ‘I CN C U’ show, it is often possible to leave out a lot of data without losing much meaning.

Như tin nhắn văn bản trong điện thoại như ‘I CN C U’ hiển thị, nó thường để lại rất nhiều dữ liệu mà không mất nhiều ý nghĩa.

 

As with error correction, however, there is a limit beyond which messages become to ambiguous.

Tuy nhiên, với việc sửa lỗi, có một giới hạn hơn cái mà đó tin nhắn trở nên quá mơ hồ.

 

Shannon showed how to calculate this limit, opening the way to the design of compression methods that cram maximum information into the minimum space.

Shannon đã trình bày cách để tính toán giới hạn đó, mở ra cách để thiết kế những phương pháp nén để tạo ra thông tin tối đa trong không gian tối thiểu.

 

Information theory lies at the heart of everything-from DVD players and genetic code of DNA to the physics of universe at its most fundamental. 

Lý thuyết thông tin nằm ở trong tim của mọi vật từ đầu đĩa DVD và mã di truyền ADN tới các vật thể đơn giản nhất trong vũ trụ. 

 

It has been central to the development of the science of communication, which enables data to be sent electronically and has therefore had a major impact on our life.

Nó đã là trung tâm của sự phát triển của khoa học truyền thông, cho phép dữ liệu được gửi bằng điện tử và do đó có tác động to lớn đến cuộc sống của chúng ta.

 

In April 2002 an event took place which demonstrated one of the many applications of information theory.

Vào tháng 4 năm 2002, 1 sự kiện đã tổ chức chứng minh một trong nhiều ứng dụng của lý thuyết thông tin.

 

The space probe, Voyager I, launched in 1977, had sent back spectacular images of Jupiter and Santurn and then soared out of Solar System on one-way mission to the stars.

Tàu du hành vũ trụ, Voyager I, đưa ra năm 1977, đã gửi trở lại các hình ảnh kì lạ của sao Mộc và sao Thổ và sau đó bay ra ngoài hệ mặt trời với sứ mệnh là tới các ngôi sao.

 

After 25 years of exposure to the freezing temperatures of deep space, the probe was beginning to show its age.

Sau 25 năm tiếp xúc với nhiệt độ đông cứng của không gian sâu thẳm, tàu vũ trụ đã bắt đầu cho thấy thời kì của nó.

 

Sensors and circuits were on the brink of failing and NASA experts realised that they had to do something or lose contact with their probe forever.

Các cảm biến và mạch đã đứng trên bờ vực thất bại và các chuyên gia NASA đã nhận ra rằng chúng ta phải làm gì đó hoặc sẽ mất con tàu mãi mãi.

 

The solution was to get a message to Voyager I to instruct it to use spares to change the failing parts.

Giải pháp là gửi 1 thông điệp tới tàu Voyager I để hướng dẫn nó sử dụng các phần dự trữ để sửa chữa các bộ phận hỏng.

 

With the probe 12 billion kilometres from Earth, this was not easy task.

Với 1 con tàu cách Trái đất 12 tỉ km, thì đó là bài toán không hề dễ.

 

By means of a radio dish belonging to NASA’s Deep Space Network, the message was sent out into depths of space.

Bằng một chiếc đĩa vô tuyến thuộc Mạng Không gian Vũ trụ của NASA, thông điệp đã được gửi đi vào khoảng không của không gian.

 

Even travelling at the speed of light, it took over 11 hours to reach its target, beyond the orbit of Pluto.

Dù cho hành trình đi với tốc độ ánh sáng, nó cũng mất hơn 11 tiếng để tới điểm mong muốn, lớn hơn quỹ đạo của sao Diêm Vương.

 

Yet, incredibly, the little probe managed to hear the faint call from its home planet, and successfully made the switchover.

Tuy nhiên, thật kì diệu, chiếc tàu vũ trụ nhỏ bé đã xoay sở để nghe tiếng gọi yếu ớt từ hành tinh nó, và đã thành công việc chuyển đổi.

 

It was the longest - distance repair job in history, and a triumph for the NASA engineers.

Đó là công việc sửa chữa với quãng đường xa nhất trong lịch sử, và là một thắng lợi cho các kỹ sư NASA. 

 

But it also highlighted the astonishing power of the techniques developed by American communication engineer Claude Shannon, who had died just a year earlier.

Nhưng nó cũng đánh dấu sức mạnh đáng ngạc nhiên của kỹ thuật phát triển bởi kỹ sư truyền thông Mỹ Claude Shannon, người mới mất một năm trước.

 

Born in 1916 in Petoskey, Michigan, Shannon showed an early talent for Maths and for building gadgets, and made breakthroughs in the foundations of computer technology when a student.

Sinh năm 1916 tại Petoskey, Michigan, Shannon đã biểu hiện là một tài năng sớm về toán học và các công cụ xây dựng, và mang đến sự phát triển quan trọng trong nền tảng của kỹ thuật máy tính khi là một sinh viên.

 

While at Bell labratories, Shannon developed Information Theory, but shunned the resulting acclaim.

Trong khi tại các phòng thí nghiệm Bell, Shannon đã phát triển lý thuyết thông tin, thì kết quả đó lại không được ca ngợi.

 

In the 1940s, he single – handedly created an entire science of communication which has since inveigled its way into a host of applications, from DVDs to satelite communications to bar codes-any area, in short, where data has to be conveyed rapidly yet accuratedly.

Trong những năm 1940, ông ấy tự tạo ra toàn bộ khoa học truyền thông cái mà từ đó truyền tải các ứng dụng của nó từ DVD đến các vệ tinh tới các vạch mã, hay bất kì nơi nào, nơi mà dữ liệu được truyền tải nhanh chóng mà chính xác.

 

This all seems light years away from the down-to-earth uses Shannon originally had for his work, which began when he was a 22-year-old graduate engineering student at the prestigious Massachusetts Institute of Technology in 1939.

Tất cả điều đó dường như xa rời nhiều năm ánh sáng từ những cách sử dụng viển vông của Shannon bắt nguồn việc làm của ông ấy, bắt đầu khi ông ấy là một sinh viên kỹ thuật 22 tuổi tốt nghiệp tại Học viện kỹ thuật Massachusetts nổi tiếng năm 1939.

 

He set out with an apparently simple aim: to pin down the precise meaning of concept of “information”.

Ông đã thiết lập một mục đích dường như rất đơn giản: định nghĩa ý nghĩa chính xác của khái niệm Thông tin.

 

The most basic form of information, Shannon argued, is whether something is true or false- which can captured in the binary unit, or “bit”, of the form 1 or 0.

Hình thức cơ bản nhất của thông tin, Shannon lập luận, là liệu có cái gì là đúng hay sai, cái mà có thể năm bắt được trong đơn vị nhị phân, hay ‘bit’, ở dạng 1 hay 0.

 

Having indentified this fundamental unit, Shannon set about defining otherwise vague ideas about information and how to transmit it from place to place.

Sau khi xác định những đơn vị cơ bản này, Shannon đã thiết lập định nghĩa khác những ý tưởng  mơ hồ liên quan đến thông tin và làm thế nào để truyền thông tin từ địa điểm này tới địa điểm khác.

 

In the process, he discovered something surprising: it is always possible to guarantee information will get through random interference-“noise”- intact.

Trong quá trình này, ông ấy đã khám phá ra những thứ đáng ngạc nhiên: đó là luôn luôn có thể để đảm bảo thông tin sẽ bị can thiệp ngẫu nhiên – ‘tiếng ồn’ – còn nguyên vẹn.

 

Noise usually means unwanted sounds which interfere with genuine information.

Tiếng ồn thường được hiểu là âm thanh không mong muốn gây cản trở các thông tin chính xác.

 

Information Theory generalises this idea via theorems that capture the effects of noise with mathematical precision.

Lý thuyết thông tinh đã khái quát hóa ý tưởng này qua các định lý nắm bắt những ảnh hưởng của tiếng ồn tới độ chính xác toán học.

 

In particular, Shannon showed that noise sets a limit on the rate at which information can pass along communication channels while remaining error-free.

Cụ thể, Shannon đã cho thấy tiếng ồn đặt ra một giới hạn tốc độ thông tin có thể truyền qua kênh truyền thông và duy trì việc không có lỗi.

 

This rate depends on the relative strengths of the signal and noise travelling down the communication channel, and its on capacity (its ‘bandwidth’).

Tốc độ này phụ thuộc vào cường độ tương đối của tín hiệu và tiếng ồn đi xuống các kênh truyền thông, và dung lượng của nó (dãy sóng của nó).

 

The resulting limit, given in units of bits per second, is the absolute maximum rate of error-free communication given signal strengths and noise level.

Giới hạn kết quả, tính theo đơn vị bit/giây, tỷ lệ hoàn toàn tuyệt đối của việc truyền đạt không có lỗi cho cường độ tín hiệu và mức độ tiếng ồn.

 

The trick, Shannon showed, is to find ways of packaging up – coding – information to cope with the ravages of noise, while staying within the information – carrying capacity – bandwidth – of the communication system being used.

Bí quyết của Shannon cho thấy là tìm cách đóng gói - "mã hóa" - thông tin để đối phó với sự tàn phá của tiếng ồn, trong khi vẫn ở trong thông tin - "khả năng vận chuyển" – ‘dãy sóng’- của hệ thống truyền thông đang được sử dụng.

 

Over the years scientists have devised many coding methods, and they have proved crucial in many technological feats.

Trong những năm qua, các nhà khoa học đã phát minh nhiều cách mã hóa và họ chứng minh được tầm quan trọng trong nhiều thành tựu kỹ thuật.

 

The Voyager spacecraft transmitted data using codes which added one extra bit for every single bit of information; the result was an error rate of just one bit in 10000 – and stunningly clear pictures of the planets.

Con tàu vũ trụ Voyager đã truyền dữ liệu bằng cách sử dụng mã số đã thêm một bit cho mỗi bit thông tin; kết quả là tỷ lệ lỗi chỉ là một chút trong 10,000 và hình ảnh rõ ràng rõ ràng của các hành tinh.

 

Other code have become part of everyday life – such as the Universe Product Code, or bar code, which uses a simple error – defecting system that ensures supermarket check – out lasers can read the price even on, say, the crumbled bag crisps.

Các mã khác đã trở thành một phần của cuộc sống hàng ngày - chẳng hạn như mã sản phẩm chung hoặc mã vạch, sử dụng một hệ thống phát hiện lỗi đơn giản để đảm bảo rằng các laser kiểm tra siêu thị có thể đọc được giá cả, ví dụ như một túi crisps crumpled.

 

As recently as 1993, engineers made a major breakthrough by discovering so – called turbo codes – which come very close to Shannon ‘ ultimate limit for the maximum rate that data can be transmitted reliably, and now play a key role in the mobile videophone revolution.

Gần đây vào năm 1993, các kỹ sư đã thực hiện một bước đột phá lớn bằng cách khám phá ra cái gọi là các mã turbo – cái mà đến rất gần với giới hạn tối đa của Shannon cho tốc độ tối đa mà dữ liệu có thể được truyền một cách đáng tin cậy và giờ đây đóng một vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng điện thoại di động.

 

Shannon also laid the foundation of more efficient ways of storing information, by stripping out superfluous (‘rebundant’) bits data which contributed little real information.

Shannon cũng đặt nền móng cho cách lưu trữ thông tin hiệu quả hơn, bằng cách loại bỏ các bit không cần thiết ('dư thừa') khỏi các dữ liệu có ít thông tin thực tế.

 

As mobile phone text messages like ‘I CN C U’ show, it is often possible to leave out a lot of data without losing much meaning.

Như tin nhắn văn bản trong điện thoại như ‘I CN C U’ hiển thị, nó thường để lại rất nhiều dữ liệu mà không mất nhiều ý nghĩa.

 

As with error correction, however, there is a limit beyond which messages become to ambiguous.

Tuy nhiên, với việc sửa lỗi, có một giới hạn hơn cái mà đó tin nhắn trở nên quá mơ hồ.

 

Shannon showed how to calculate this limit, opening the way to the design of compression methods that cram maximum information into the minimum space.

Shannon đã trình bày cách để tính toán giới hạn đó, mở ra cách để thiết kế những phương pháp nén để tạo ra thông tin tối đa trong không gian tối thiểu.

The history of the tortoise: Lịch sử loài rùa



A

If you go back far enough, everything lived in the sea.
Nếu bạn quay trở lại quá khứ đủ lâu thì bạn sẽ thấy tất cả mọi thứ đều sống dưới biển.

At various points in evolutionary history, enterprising individuals within many different animal groups moved out onto the land, sometimes even to the most parched deserts, taking their own private seawater with them in blood and cellular fluids.
Tại các thời điểm khác nhau trong lịch sử tiến hóa, các cá thể mạnh dạn trong các nhóm động vật khác nhau đã di chuyển lên đất liền, thậm chí lên các vùng sa mạc khô cằn nhất, mang theo nước biển riêng của mình trong máu và các chất lỏng tế bào.
 
In addition to the reptiles, birds, mammals and insects which we see all around us, other groups that have succeeded out of water include scorpions, snails, crustaceans such as woodlice and land crabs, millipedes and centipedes, spiders and various worms.
Ngoài các loài bò sát, chim, động vật có vú và côn trùng mà chúng ta thấy xung quanh thì các nhóm khác đã thành công khi thoát khỏi môi trường nước bao gồm bọ cạp, ốc sên, động vật giáp xác như loài mối và cua đất, động vật nhiều chân và rết, nhện và các loài sâu bọ khác nhau.
 
And we mustn’t forget the plants, without whose prior invasion of the land none of the other migrations could have happened.
Và chúng ta đừng quên thực vật mà nếu không có chúng thì không có loài nào có thể di cư lên đất liền được.
 
B

Moving from water to land involved a major redesign of every aspect of life, including breathing and reproduction.
Di chuyển từ môi trường nước sang môi trường đất liền có liên quan rất lớn đến việc thiết kế lại ất cả các khía cạnh của cuộc sống, bao gồm cả việc thở và sinh sản.
 
Nevertheless, a good number of thoroughgoing land animals later turned around, abandoned their hard-earned terrestrial re-tooling, and returned to the water again.
Tuy nhiên, về sau một số lượng lớn các động vật sống trên cạn triệt để đã quay trở lại môi trường nước khi chúng bỏ rơi các nơi khó kiếm sống trên đất liền.

Seals have only gone part way back.
Hải cẩu là loài duy nhất quay trở về môi trường nước một phần.

They show us what the intermediates might have been like, on the way to extreme cases such as whales and dugongs.
Chúng cho chúng ta thấy những loài sinh vật trung gian sẽ như thế nào trên đường phát triển thành các trường hợp cá biệt như loài cá voi hay cá nược.

Whales (including the small whales we call dolphins) and dugongs, with their close cousins the manatees, ceased to be land creatures altogether and reverted to the full marine habits of their remote ancestors.
Cá voi (bao gồm cả những con cá voi nhỏ mà chúng ta gọi là cá heo) và cá nược, với người anh em họ gần gũi với lợn biển, không còn là những sinh vật trên cạn hoàn toàn và đã trở lại thói quen dưới biển đầy đủ giống như tổ tiên xa của chúng.
 
They don’t even come ashore to breed.
Chúng thậm chí không lên bờ để sinh sản.

They do, however, still breathe air, having never developed anything equivalent to the gills of their earlier marine incarnation.
Tuy nhiên chúng vẫn hít thở không khí và không phát triển thêm bất cứ thứ gì tương đương với mang như các thế hệ tổ tiên sống dưới biển của chúng.
 
Turtles went back to the sea a very long time ago and, like all vertebrate returnees to the water, they breathe air.
Loài rùa đã trở lại biển từ rất lâu rồi và giống như tất cả những loài trở về biển có xương sống, chúng cũng hít thở không khí.

However, they are, in one respect, less fully given back to the water than whales or dugongs, for turtles still lay their eggs on beaches.
Tuy nhiên, ở một khía cạnh, loài rùa ít trở lại nước hơn cá voi hay loài cá nược nên chúng vẫn còn đẻ trứng trên các bãi biển.

C

There is evidence that all modern turtles are descended from a terrestrial ancestor which lived before most of the dinosaurs.
Có bằng chứng cho thấy là tất cả các loài rùa hiện nay có nguồn gốc từ một loài tổ tiên sống trên đất liền trước khi loài khủng long xuất hiện.
 
There are two key fossils called Proganochelys quenstedti and Palaeochersis talampayensis dating from early dinosaur times, which appear to be close to the ancestry of all modem turtles and tortoises.
Có hai hóa thạch phím gọi là Proganochelys quenstedti và Palaeochersis talampayensis có niên đại từ thời khủng long đầu tiên dường như được xem là gần với tổ tiên của tất cả các loài rùa hiện đại.
 
You might wonder how we can tell whether fossil animals lived on land or in water, especially if only fragments are found.
Bạn có thể tự hỏi làm thế nào chúng ta có thể biết được là các động vật hóa thạch này sống trên cạn hay dưới nước, đặc biệt là nếu chỉ tìm thấy được mảnh vỡ của chúng.
 
Sometimes it’s obvious.
Đôi khi đó là hiển nhiên.
 
Ichthyosaurs were reptilian contemporaries of the dinosaurs, with fins and streamlined bodies.
Thằn lằn cá là loài cùng thời bò sát với loài khủng long, có vây và các cơ quan sắp xếp hợp lý.
 
The fossils look like dolphins and they surely lived like dolphins, in the water.
Các hóa thạch được tìm thấy trông giống như cá heo và chắc chắn chúng đã sống như cá heo khi sống dưới nước.
 
With turtles it is a little less obvious.
Với rùa thì điều này ít rõ ràng hơn.
 
One way to tell is by measuring the bones of their forelimbs.
Một cách nào để biết điều đó là đo xương chi trước của chúng.
 
Walter Joyce and Jacques Gauthier, at Yale University, obtained three measurements in these particular bones of 71 species of living turtles and tortoises.
Walter Joyce và Jacques Gauthier, tại Đại học Yale, đã thực hiện ba loại đo khác nhau trong các xương đặc biệt của 71 loài rùa sống.

They used a kind of triangular graph paper to plot the three measurements against one another.
Họ đã sử dụng một loại giấy hình tam giác đo ba thông số.
 
All the land tortoise species formed a tight cluster of points in the upper part of the triangle; all the water turtles cluster in the lower part of the triangular graph.
Tất cả các loài rùa trên đất liền hình thành một cụm chặt chẽ ở các điểm trong phần trên của tam giác; tất cả các loài rùa dưới nước tập trung tại phần dưới của biểu đồ hình tam giác.
 
There was no overlap, except when they added some species that spend time both in water and on land.
Không có sự chồng chéo, trừ khi họ bổ sung thêm một số loài dành thời gian cả dưới nước và trên đất liền.
 
Sure enough, these amphibious species show up on the triangular graph approximately half way between the ‘wet cluster’ of sea turtles and the ‘dry cluster’ of land tortoises.
Chắc chắn, những loài lưỡng cư hiển thị trên đồ thị tam giác trong khoảng giữa của 'cụm ướt' của loài rùa biển và 'cụm khô' của rùa đất liền.
 
The next step was to determine where the fossils fell.
Bước tiếp theo là xác định nơi các hóa thạch được tìm thấy.
 
The bones of P quenstedti and JR talampayensis leave us in no doubt.
Các xương của loài P quenstedti và JR talampayensis lại làm cho chúng ta sáng tỏ.
 
Their points on the graph are right in the thick of the dry cluster.
Các điểm của chúng trên đồ thị nằm đúng trong phần dày của cụm khô.
 
Both these fossils were dry-land tortoises.
Cả hai hóa thạch này là rùa đất liền.
 
They come from the era before our turtles returned to the water.
Chúng có từ thời đại trước khi loài rùa của chúng ta trở về môi trường nước.
 
D

You might think, therefore, that modern land tortoises have probably stayed on land ever since those early terrestrial times, as most mammals did after a few of them went back to the sea.
Do đó bạn có thể nghĩ rằng rằng loài rùa đất liền hiện nay đã có thể ở lại trên đất liền kể từ những lần lên đất liền đầu tiên như hầu hết các động vật có vú đã làm sau khi một vài trong số chúng đã trở lại biển.
 
But apparently not.
Nhưng dường như không.
 
If you draw out the family tree of all modern turtles and tortoises, nearly all the branches are aquatic.
Nếu bạn vẽ ra cây gia phả của tất cả các loài rùa hiện nay thì gần như tất cả các nhánh của chúng đều ở dưới nước.
 
Today’s land tortoises constitute a single branch, deeply nested among branches consisting of aquatic turtles.
Rùa đất liền ngày nay là nhánh duy nhất, lồng nhau giữa các nhánh bao gồm rùa dưới nước.
 
This suggests that modern land tortoises have not stayed on land continuously since the time of P quenstedti and P talampayensis.
Điều này cho thấy rằng loài rùa đất liền hiện nay đã không còn ở lại trên đất liên tục kể từ thời điểm loài P quenstedti và P talampayensis.

Rather, their ancestors were among those who went back to the water, and they then re-emerged back onto the land in (relatively) more recent times.
Thay vào đó, tổ tiên của chúng là một trong số những loài trở lại môi trường nước, và sau đó chúng lại nổi lên trở lại đất liền trong thời gian (tương đối) gần đây.
 
E

Tortoises therefore represent a remarkable double return.
Do đó loài rùa đại diện cho một sự trở lại đáng chú ý gấp đôi.
 
In common with all mammals, reptiles and birds, their remote ancestors were marine fish and before that various more or less worm-like creatures stretching back, still in the sea, to the primeval bacteria.
Trong các động vật có vú phổ biển thì loài bò sát và các loài chim có tổ tiên xa là loài cá biển và trước đó tổ tiên chúng là những sinh vật giống sâu lúc còn ở dưới biển, cho đến các loài vi khuẩn nguyên sinh.

Later ancestors lived on land and stayed there for a very large number of generations.
Sau đó các loài tổ tiên này lên sống trên đất liền và ở lại đó với một số lượng rất lớn các thế hệ.
 
Later ancestors still evolved back into the water and became sea turtles.
Các tổ tiên sau đó vẫn tiến hoá ngược trở lại vào môi trường nước và trở thành loài rùa biển.
 
And finally they returned yet again to the land as tortoises, some of which now live in the driest of deserts.
Và cuối cùng chúng trở lại một lần nữa với đất liền dưới dạng rùa đất liền mà một số trong đó hiện đang sống ở các vùng khô cằn nhất của sa mạc.

If you go back far enough, everything lived in the sea.
Nếu bạn quay trở lại quá khứ đủ lâu thì bạn sẽ thấy tất cả mọi thứ đều sống dưới biển.

At various points in evolutionary history, enterprising individuals within many different animal groups moved out onto the land, sometimes even to the most parched deserts, taking their own private seawater with them in blood and cellular fluids.
Tại các thời điểm khác nhau trong lịch sử tiến hóa, các cá thể mạnh dạn trong các nhóm động vật khác nhau đã di chuyển lên đất liền, thậm chí lên các vùng sa mạc khô cằn nhất, mang theo nước biển riêng của mình trong máu và các chất lỏng tế bào.
 
In addition to the reptiles, birds, mammals and insects which we see all around us, other groups that have succeeded out of water include scorpions, snails, crustaceans such as woodlice and land crabs, millipedes and centipedes, spiders and various worms.
Ngoài các loài bò sát, chim, động vật có vú và côn trùng mà chúng ta thấy xung quanh thì các nhóm khác đã thành công khi thoát khỏi môi trường nước bao gồm bọ cạp, ốc sên, động vật giáp xác như loài mối và cua đất, động vật nhiều chân và rết, nhện và các loài sâu bọ khác nhau.
 
And we mustn’t forget the plants, without whose prior invasion of the land none of the other migrations could have happened.
Và chúng ta đừng quên thực vật mà nếu không có chúng thì không có loài nào có thể di cư lên đất liền được.
 
Moving from water to land involved a major redesign of every aspect of life, including breathing and reproduction.
Di chuyển từ môi trường nước sang môi trường đất liền có liên quan rất lớn đến việc thiết kế lại ất cả các khía cạnh của cuộc sống, bao gồm cả việc thở và sinh sản.
 
Nevertheless, a good number of thoroughgoing land animals later turned around, abandoned their hard-earned terrestrial re-tooling, and returned to the water again.
Tuy nhiên, về sau một số lượng lớn các động vật sống trên cạn triệt để đã quay trở lại môi trường nước khi chúng bỏ rơi các nơi khó kiếm sống trên đất liền.

Seals have only gone part way back.
Hải cẩu là loài duy nhất quay trở về môi trường nước một phần.

They show us what the intermediates might have been like, on the way to extreme cases such as whales and dugongs.
Chúng cho chúng ta thấy những loài sinh vật trung gian sẽ như thế nào trên đường phát triển thành các trường hợp cá biệt như loài cá voi hay cá nược.

Whales (including the small whales we call dolphins) and dugongs, with their close cousins the manatees, ceased to be land creatures altogether and reverted to the full marine habits of their remote ancestors.
Cá voi (bao gồm cả những con cá voi nhỏ mà chúng ta gọi là cá heo) và cá nược, với người anh em họ gần gũi với lợn biển, không còn là những sinh vật trên cạn hoàn toàn và đã trở lại thói quen dưới biển đầy đủ giống như tổ tiên xa của chúng.
 
They don’t even come ashore to breed.
Chúng thậm chí không lên bờ để sinh sản.

They do, however, still breathe air, having never developed anything equivalent to the gills of their earlier marine incarnation.
Tuy nhiên chúng vẫn hít thở không khí và không phát triển thêm bất cứ thứ gì tương đương với mang như các thế hệ tổ tiên sống dưới biển của chúng.
 
Turtles went back to the sea a very long time ago and, like all vertebrate returnees to the water, they breathe air.
Loài rùa đã trở lại biển từ rất lâu rồi và giống như tất cả những loài trở về biển có xương sống, chúng cũng hít thở không khí.

However, they are, in one respect, less fully given back to the water than whales or dugongs, for turtles still lay their eggs on beaches.
Tuy nhiên, ở một khía cạnh, loài rùa ít trở lại nước hơn cá voi hay loài cá nược nên chúng vẫn còn đẻ trứng trên các bãi biển.

There is evidence that all modern turtles are descended from a terrestrial ancestor which lived before most of the dinosaurs.
Có bằng chứng cho thấy là tất cả các loài rùa hiện nay có nguồn gốc từ một loài tổ tiên sống trên đất liền trước khi loài khủng long xuất hiện.
 
There are two key fossils called Proganochelys quenstedti and Palaeochersis talampayensis dating from early dinosaur times, which appear to be close to the ancestry of all modem turtles and tortoises.
Có hai hóa thạch phím gọi là Proganochelys quenstedti và Palaeochersis talampayensis có niên đại từ thời khủng long đầu tiên dường như được xem là gần với tổ tiên của tất cả các loài rùa hiện đại.
 
You might wonder how we can tell whether fossil animals lived on land or in water, especially if only fragments are found.
Bạn có thể tự hỏi làm thế nào chúng ta có thể biết được là các động vật hóa thạch này sống trên cạn hay dưới nước, đặc biệt là nếu chỉ tìm thấy được mảnh vỡ của chúng.
 
Sometimes it’s obvious.
Đôi khi đó là hiển nhiên.
 
Ichthyosaurs were reptilian contemporaries of the dinosaurs, with fins and streamlined bodies.
Thằn lằn cá là loài cùng thời bò sát với loài khủng long, có vây và các cơ quan sắp xếp hợp lý.
 
The fossils look like dolphins and they surely lived like dolphins, in the water.
Các hóa thạch được tìm thấy trông giống như cá heo và chắc chắn chúng đã sống như cá heo khi sống dưới nước.
 
With turtles it is a little less obvious.
Với rùa thì điều này ít rõ ràng hơn.
 
One way to tell is by measuring the bones of their forelimbs.
Một cách nào để biết điều đó là đo xương chi trước của chúng.

NGỌC THU

ARTCANDY SHOP NGỌC THU -     Trên   bước   đường   THÀNH   CÔNG , không   có   dấu   chân   của   những   kẻ   LƯỜI   BIẾNG . ...