A chronicle of timekeeping: Biên niên sử của định mức thời gian

 

Our conception of time depends on the way we measure it.
Nhận thức về thời gian phụ thuộc vào cách chúng ta đo lường nó.

A

According to archaeological evidence, at least 5,000 years ago, and long before the advent of the Roman Empire, the Babylonians began to measure time, introducing calendars to co-ordinate communal activities, to plan the shipment of goods and, in particular, to regulate planting and harvesting.
Theo bằng chứng khảo cổ học, ít nhất 5,000 năm trước đây, và rất lâu trước sự ra đời của Đế chế La Mã, người Babylon đã bắt đầu đo thời gian, đưa ra lịch nhằm phối hợp các hoạt động trong cộng đồng, lập kế hoạch vận chuyển hàng hóa và đặc biệt, để điều tiết trồng trọt và thu hoạch.

They based their calendars on three natural cycles: the solar day, marked by the successive periods of light and darkness as the earth rotates on its axis; the lunar month, following the phases of the moon as it orbits the earth; and the solar year, defined by the changing seasons that accompany our planet's revolution around the sun.
Lịch của họ dựa vào ba chu kỳ tự nhiên: ngày mặt trời, được đánh dấu bằng các giai đoạn luân hồi của ánh sáng và bóng tối như trái đất quay quanh trục của nó; tháng giêng âm lịch, sau các tuần mặt trăng quay quanh trái đất; và năm dương lịch, được xác định bởi các mùa thay đổi mà các hành tinh quay quanh mặt trời.

B

Before the invention of artificial light, the moon had greater social impact.
Trước khi phát minh ra ánh sáng nhân tạo, mặt trăng có tác động xã hội lớn hơn.

And, for those living near the equator in particular, its waxing and waning was more conspicuous than the passing of the seasons.
Và, đặc biệt đối với những người sống gần đường xích đạo, hình dạng tròn và khuyết của mặt trăng nhận thấy rõ hơn qua các mùa.

Hence, the calendars that were developed at the lower latitudes were influenced more by the lunar cycle than by the solar year.
Do đó, lịch được xây dựng ở những nơi vĩ độ thấp bị ảnh hưởng nhiều bởi chu kỳ mặt trăng quay quanh trái đất hơn là chu kì trái đất quay quanh mặt trời.

In more northern climes, however, where seasonal agriculture was practised, the solar year became more crucial.
Tuy nhiên, nhiều hơn ở những vùng phía bắc, nơi nông nghiệp theo thời vụ được áp dụng, năm dương lịch trở nên quan trọng hơn.

As the Roman Empire expanded northward, it organised its activity chart for the most part around the solar year.
Khi đế chế La Mã mở rộng về phía bắc, nó đã thiết lập biểu đồ hoạt động đối với hầu hết các mùa quanh năm dương lịch.

C

Centuries before the Roman Empire, the Egyptians had formulated a municipal calendar having 12 months of 30 days, with five days added to approximate the solar year.
Nhiều thế kỷ trước đế chế La Mã, người Ai Cập đã xây dựng một lịch riêng gồm 12 tháng có 30 ngày, cộng thêm năm ngày để xấp xỉ năm dương lịch.

Each period of ten days was marked by the appearance of special groups of stars called decans.
Mỗi khoảng thời gian mười ngày được đánh dấu bằng sự xuất hiện của các nhóm sao đặc biệt được gọi là decans.

At the rise of the star Sirius just before sunrise, which occurred around the all-important annual flooding of the Nile, 12 decans could be seen spanning the heavens.
Thời điểm xuất hiện saoThiên langngay trước khi mặt trời mọc, đã xảy ra lũ lụt lớn khắp sông Nile hàng năm, 12 decans có thể được nhìn thấy trải dài trên trời.

The cosmic significance the Egyptians placed in the 12 decans led them to develop a system in which each interval of darkness (and later, each interval of daylight) was divided into a dozen equal parts.
Ý nghĩa vũ trụ mà người Ai Cập để trong12 decans đưa họ phát triển thành một sự phân loại trong đó cứ mỗi khoảng thời gian tối (và sau đó, mỗi khoảng thời gian ánh sáng ban ngày) được chia thành nhiều phần bằng nhau.

These periods became known as temporal hours because their duration varied according to the changing length of days and nights with the passing of the seasons.
Những khoảng thời gian này được gọi là giờ biểu thị bởi vì thời gian của họ thay đổi tùy theo sự thay đổi độ dài của ngày và đêm qua các mùa.

Summer hours were long, winter ones short; only at the spring and autumn equinoxes were the hours of daylight and darkness equal.
Giờ mùa hè dài, mùa đông ngắn; chỉ vào thời điểm xuân phân và thu phân thì những giờ sáng và tối mới bằng nhau.

Temporal hours, which were first adopted by the Greeks and then the Romans, who disseminated them through Europe, remained in use for more than 2,500 years.
Khái niệm giờ biểu thị, lần đầu tiên được chấp nhận bởi những người Hy Lạp và sau đó người La Mã, họ đã mang nó đến châu Âu, duy trì sử dụng trong hơn 2,500 năm.

D

In order to track temporal hours during the day, inventors created sundials, which indicate time by the length or direction of the sun's shadow.
Để theo dõi giờ trong ngày, các nhà phát minh đã tạo ra những chiếc đồng hồ mặt trời, biểu thị thời gian bằng chiều dài hoặc hướng bóng của mặt trời.

The sundial's counterpart, the water clock, was designed to measure temporal hours at night.
Bản sao đồng hồ mặt trời, đồng hồ nước, được thiết kế để đo thời gian giờ vào ban đêm.

One of the first water clocks was a basin with a small hole near the bottom through which the water dripped out.
Một trong những đồng hồ nước đầu tiên là một bồn nước với một lỗ nhỏ gần đáy nơi nước chảy ra.

The falling water level denoted the passing hour as it dipped below hour lines inscribed on the inner surface.
Mực nước rơi xuống biểu thị giờ trôi qua bằng lượng nước chảy xuống theo vạch ghi giờ trên bề mặt bồn.

Although these devices performed satisfactorily around the Mediterranean, they could not always be depended on in the cloudy and often freezing weather of northern Europe.
Mặc dù các thiết bị này hoạt động tốt ở vùng Địa Trung Hải, nhưng chúng không phải lúc nào cũng thực hiện được, bị phụ thuộc vào thời tiết có nhiều mây và thường đóng băng ở Bắc Âu.

E

The advent of the mechanical clock meant that although it could be adjusted to maintain temporal hours, it was naturally suited to keeping equal ones.
Sự ra đời của đồng hồ cơ có nghĩa là mặc dù nó có thể được điều chỉnh để duy trì giờ biểu thị, sao cho được phù hợp tự nhiên nhằm duy trì các khoảng thời gian bằng nhau.

With these, however, arose the question of when to begin counting, and so, in the early 14th century, a number of systems evolved.
Tuy nhiên, với đồng hồ cơ, nảy sinh vấn đề khi nào bắt đầu đếm, và như vậy, vào đầu thế kỷ 14, một số hệ thống được phát triển.

The schemes that divided the day into 24 equal parts varied according to the start of the count: Italian hours began at sunset, Babylonian hours at sunrise, astronomical hours at midday and 'great clock' hours, used for some large public clocks in Germany, at midnight.
Các sơ đồ phân chia ngày thành 24 phần bằng nhau theo thời điểm bắt đầu đếm: Giờ Ý bắt đầu vào lúc hoàng hôn, giờ Babylon vào lúc mặt trời mọc, những giờ thiên văn vào giữa ngày và những giờ đồng hồ lớn, được sử dụng cho một số đồng hồ công cộng lớn ở Đức, vào nửa đêm.

Eventually these were superseded by 'small clock', or French, hours, which split the day into two 12-hour periods commencing at midnight.
Cuối cùng chúng được thay thế bởi 'đồng hồ nhỏ', hay là người Pháp, các giờ chia ngày ra làm hai khoảng thời gian 12 giờ bắt đầu từ nửa đêm.

F

The earliest recorded weight-driven mechanical clock was built in 1283 in Bedfordshire in England.
Đồng hồ cơ học sớm nhất điều khiển theo trọng lượng được xây dựng năm 1283 tại Bedfordshire, Anh.

The revolutionary aspect of this new timekeeper was neither the descending weight that provided its motive force nor the gear wheels (which had been around for at least 1,300 years) that transferred the power; It was the part called the escapement.
Khía cạnh mang tính cách mạng của đồng hồ mới này là không giảm trọng lượng, mà cũng không cung cấp lực chuyển đông những bánh răng (đã có ít nhất 1,300 năm) mà chuyển thành năng lượng; nó là bộ gồm một số phần của đồng hồ được gọi là bộ thoát.

In the early 1400s came the invention of the coiled spring or fusee which maintained constant force to the gear wheels of the timekeeper despite the changing tension of its mainspring.
Vào đầu những năm 1400, phát minh ra lò xo xoắn hoặc bánh côn duy trì lực liên tục cho bánh răng của đồng hồ không kể sức kéo thay đổi của lò xo chính.

By the 16th century, a pendulum clock had been devised, but the pendulum swung in a large arc and thus was not very efficient.
Vào thế kỷ 16, đồng hồ quả lắc được sáng chế ra, nhưng con lắc quay trong một vòng cung lớn và do đó không hiệu quả lắm.

G

To address this, a variation on the original escapement was invented in 1670, in England.
Để giải quyết vấn đề này, một biến thể của bộ thoát đầu tiên được phát minh vào năm 1670 tại Anh.

It was called the anchor escapement, which was a lever-based device shaped like a ship's anchor.
Nó được gọi là neo bộ thoát, đó là một thiết bị đòn bẩy dựa trên hình dạng như mỏ neo của tàu.

The motion of a pendulum rocks this device so that it catches and then releases each tooth of the escape wheel, in turn allowing it to turn a precise amount.
Sự chuyển động của một con lắc làm đu đưa thiết bị này vì thế nó bắt và nhả mỗi răng của bánh xe, lần lượt cho phép nó quay một lượng chính xác.

Unlike the original form used in early pendulum clocks, the anchor escapement permitted the pendulum to travel in a very small arc.
Không giống như các mẫu đầu tiên được sử dụng trong quả lắc, bộ thoát neo cho phép con lắc đu đưa trong một vòng cung rất nhỏ.

Moreover, this invention allowed the use of a long pendulum which could beat once a second and thus led to the development of a new floor - standing case design, which became known as the grandfather clock.
Hơn nữa, sáng chế này cho phép sử dụng một con lắc dài có thể đánh một lần một giây và do đó dẫn đến sự phát triển của một thiết kế mới nền móng, được biết đến như là đồng hồ ông nội.

H

Today, highly accurate timekeeping instruments set the beat for most electronic devices.
Ngày nay, những thiết bị đo lường thời gian với độ chính xác cao hình thành đánh bại hầu hết các thiết bị điện tử.

Nearly all computers contain a quartz-crystal clock to regulate their operation.
Gần như tất cả các máy tính đều có đồng hồ thạch anh để điều chỉnh sự vận hành của chúng.

Moreover, not only do time signals beamed down from Global Positioning System satellites calibrate the functions of precision navigation equipment, they do so as well for mobile phones, instant stock-trading systems and nationwide power-distribution grids.
Hơn nữa, những tín hiệu thời gian không chỉ được truyền từ các vệ tinh Hệ thống Định vị Toàn cầu hiệu chỉnh các chức năng của thiết bị định vị chính xác, nó làm như vậy cho điện thoại di động, hệ thống giao dịch chứng khoán tức thời và lưới điện phân phối toàn quốc.

So integral have these time-based technologies become to day-to-day existence that our dependency on them is recognised only when they fail to work.
Vì vậy, toàn bộ những công nghệ dựa trên thời gian này trở thành sự sống ngày qua ngày mà sự phụ thuộc của chúng ta vào chúng chỉ được nhận ra khi chúng không làm việc.

Our conception of time depends on the way we measure it.

Nhận thức về thời gian phụ thuộc vào cách chúng ta đo lường nó.

According to archaeological evidence, at least 5,000 years ago, and long before the advent of the Roman Empire, the Babylonians began to measure time, introducing calendars to co-ordinate communal activities, to plan the shipment of goods and, in particular, to regulate planting and harvesting.
Theo bằng chứng khảo cổ học, ít nhất 5,000 năm trước đây, và rất lâu trước sự ra đời của Đế chế La Mã, người Babylon đã bắt đầu đo thời gian, đưa ra lịch nhằm phối hợp các hoạt động trong cộng đồng, lập kế hoạch vận chuyển hàng hóa và đặc biệt, để điều tiết trồng trọt và thu hoạch.

They based their calendars on three natural cycles: the solar day, marked by the successive periods of light and darkness as the earth rotates on its axis; the lunar month, following the phases of the moon as it orbits the earth; and the solar year, defined by the changing seasons that accompany our planet's revolution around the sun.
Lịch của họ dựa vào ba chu kỳ tự nhiên: ngày mặt trời, được đánh dấu bằng các giai đoạn luân hồi của ánh sáng và bóng tối như trái đất quay quanh trục của nó; tháng giêng âm lịch, sau các tuần mặt trăng quay quanh trái đất; và năm dương lịch, được xác định bởi các mùa thay đổi mà các hành tinh quay quanh mặt trời.

Before the invention of artificial light, the moon had greater social impact.
Trước khi phát minh ra ánh sáng nhân tạo, mặt trăng có tác động xã hội lớn hơn.

And, for those living near the equator in particular, its waxing and waning was more conspicuous than the passing of the seasons.
Và, đặc biệt đối với những người sống gần đường xích đạo, hình dạng tròn và khuyết của mặt trăng nhận thấy rõ hơn qua các mùa.

Hence, the calendars that were developed at the lower latitudes were influenced more by the lunar cycle than by the solar year.
Do đó, lịch được xây dựng ở những nơi vĩ độ thấp bị ảnh hưởng nhiều bởi chu kỳ mặt trăng quay quanh trái đất hơn là chu kì trái đất quay quanh mặt trời.

In more northern climes, however, where seasonal agriculture was practised, the solar year became more crucial.
Tuy nhiên, nhiều hơn ở những vùng phía bắc, nơi nông nghiệp theo thời vụ được áp dụng, năm dương lịch trở nên quan trọng hơn.

As the Roman Empire expanded northward, it organised its activity chart for the most part around the solar year.
Khi đế chế La Mã mở rộng về phía bắc, nó đã thiết lập biểu đồ hoạt động đối với hầu hết các mùa quanh năm dương lịch.

Centuries before the Roman Empire, the Egyptians had formulated a municipal calendar having 12 months of 30 days, with five days added to approximate the solar year.
Nhiều thế kỷ trước đế chế La Mã, người Ai Cập đã xây dựng một lịch riêng gồm 12 tháng có 30 ngày, cộng thêm năm ngày để xấp xỉ năm dương lịch.

Each period of ten days was marked by the appearance of special groups of stars called decans.
Mỗi khoảng thời gian mười ngày được đánh dấu bằng sự xuất hiện của các nhóm sao đặc biệt được gọi là decans.

At the rise of the star Sirius just before sunrise, which occurred around the all-important annual flooding of the Nile, 12 decans could be seen spanning the heavens.
Thời điểm xuất hiện saoThiên langngay trước khi mặt trời mọc, đã xảy ra lũ lụt lớn khắp sông Nile hàng năm, 12 decans có thể được nhìn thấy trải dài trên trời.

The cosmic significance the Egyptians placed in the 12 decans led them to develop a system in which each interval of darkness (and later, each interval of daylight) was divided into a dozen equal parts.
Ý nghĩa vũ trụ mà người Ai Cập để trong12 decans đưa họ phát triển thành một sự phân loại trong đó cứ mỗi khoảng thời gian tối (và sau đó, mỗi khoảng thời gian ánh sáng ban ngày) được chia thành nhiều phần bằng nhau.

These periods became known as temporal hours because their duration varied according to the changing length of days and nights with the passing of the seasons.
Những khoảng thời gian này được gọi là giờ biểu thị bởi vì thời gian của họ thay đổi tùy theo sự thay đổi độ dài của ngày và đêm qua các mùa.

Summer hours were long, winter ones short; only at the spring and autumn equinoxes were the hours of daylight and darkness equal.
Giờ mùa hè dài, mùa đông ngắn; chỉ vào thời điểm xuân phân và thu phân thì những giờ sáng và tối mới bằng nhau.

Temporal hours, which were first adopted by the Greeks and then the Romans, who disseminated them through Europe, remained in use for more than 2,500 years.
Khái niệm giờ biểu thị, lần đầu tiên được chấp nhận bởi những người Hy Lạp và sau đó người La Mã, họ đã mang nó đến châu Âu, duy trì sử dụng trong hơn 2,500 năm.

In order to track temporal hours during the day, inventors created sundials, which indicate time by the length or direction of the sun's shadow.
Để theo dõi giờ trong ngày, các nhà phát minh đã tạo ra những chiếc đồng hồ mặt trời, biểu thị thời gian bằng chiều dài hoặc hướng bóng của mặt trời.

The sundial's counterpart, the water clock, was designed to measure temporal hours at night.
Bản sao đồng hồ mặt trời, đồng hồ nước, được thiết kế để đo thời gian giờ vào ban đêm.

One of the first water clocks was a basin with a small hole near the bottom through which the water dripped out.
Một trong những đồng hồ nước đầu tiên là một bồn nước với một lỗ nhỏ gần đáy nơi nước chảy ra.

The falling water level denoted the passing hour as it dipped below hour lines inscribed on the inner surface.
Mực nước rơi xuống biểu thị giờ trôi qua bằng lượng nước chảy xuống theo vạch ghi giờ trên bề mặt bồn.

Although these devices performed satisfactorily around the Mediterranean, they could not always be depended on in the cloudy and often freezing weather of northern Europe.
Mặc dù các thiết bị này hoạt động tốt ở vùng Địa Trung Hải, nhưng chúng không phải lúc nào cũng thực hiện được, bị phụ thuộc vào thời tiết có nhiều mây và thường đóng băng ở Bắc Âu.

The advent of the mechanical clock meant that although it could be adjusted to maintain temporal hours, it was naturally suited to keeping equal ones.
Sự ra đời của đồng hồ cơ có nghĩa là mặc dù nó có thể được điều chỉnh để duy trì giờ biểu thị, sao cho được phù hợp tự nhiên nhằm duy trì các khoảng thời gian bằng nhau.

With these, however, arose the question of when to begin counting, and so, in the early 14th century, a number of systems evolved.
Tuy nhiên, với đồng hồ cơ, nảy sinh vấn đề khi nào bắt đầu đếm, và như vậy, vào đầu thế kỷ 14, một số hệ thống được phát triển.

The schemes that divided the day into 24 equal parts varied according to the start of the count: Italian hours began at sunset, Babylonian hours at sunrise, astronomical hours at midday and 'great clock' hours, used for some large public clocks in Germany, at midnight.
Các sơ đồ phân chia ngày thành 24 phần bằng nhau theo thời điểm bắt đầu đếm: Giờ Ý bắt đầu vào lúc hoàng hôn, giờ Babylon vào lúc mặt trời mọc, những giờ thiên văn vào giữa ngày và những giờ đồng hồ lớn, được sử dụng cho một số đồng hồ công cộng lớn ở Đức, vào nửa đêm.

Eventually these were superseded by 'small clock', or French, hours, which split the day into two 12-hour periods commencing at midnight.
Cuối cùng chúng được thay thế bởi 'đồng hồ nhỏ', hay là người Pháp, các giờ chia ngày ra làm hai khoảng thời gian 12 giờ bắt đầu từ nửa đêm.

The earliest recorded weight-driven mechanical clock was built in 1283 in Bedfordshire in England.
Đồng hồ cơ học sớm nhất điều khiển theo trọng lượng được xây dựng năm 1283 tại Bedfordshire, Anh.

The revolutionary aspect of this new timekeeper was neither the descending weight that provided its motive force nor the gear wheels (which had been around for at least 1,300 years) that transferred the power; It was the part called the escapement.
Khía cạnh mang tính cách mạng của đồng hồ mới này là không giảm trọng lượng, mà cũng không cung cấp lực chuyển đông những bánh răng (đã có ít nhất 1,300 năm) mà chuyển thành năng lượng; nó là bộ gồm một số phần của đồng hồ được gọi là bộ thoát.

In the early 1400s came the invention of the coiled spring or fusee which maintained constant force to the gear wheels of the timekeeper despite the changing tension of its mainspring.
Vào đầu những năm 1400, phát minh ra lò xo xoắn hoặc bánh côn duy trì lực liên tục cho bánh răng của đồng hồ không kể sức kéo thay đổi của lò xo chính.

By the 16th century, a pendulum clock had been devised, but the pendulum swung in a large arc and thus was not very efficient.
Vào thế kỷ 16, đồng hồ quả lắc được sáng chế ra, nhưng con lắc quay trong một vòng cung lớn và do đó không hiệu quả lắm.

To address this, a variation on the original escapement was invented in 1670, in England.
Để giải quyết vấn đề này, một biến thể của bộ thoát đầu tiên được phát minh vào năm 1670 tại Anh.

It was called the anchor escapement, which was a lever-based device shaped like a ship's anchor.
Nó được gọi là neo bộ thoát, đó là một thiết bị đòn bẩy dựa trên hình dạng như mỏ neo của tàu.

The motion of a pendulum rocks this device so that it catches and then releases each tooth of the escape wheel, in turn allowing it to turn a precise amount.
Sự chuyển động của một con lắc làm đu đưa thiết bị này vì thế nó bắt và nhả mỗi răng của bánh xe, lần lượt cho phép nó quay một lượng chính xác.

Unlike the original form used in early pendulum clocks, the anchor escapement permitted the pendulum to travel in a very small arc.
Không giống như các mẫu đầu tiên được sử dụng trong quả lắc, bộ thoát neo cho phép con lắc đu đưa trong một vòng cung rất nhỏ.

Moreover, this invention allowed the use of a long pendulum which could beat once a second and thus led to the development of a new floor - standing case design, which became known as the grandfather clock.
Hơn nữa, sáng chế này cho phép sử dụng một con lắc dài có thể đánh một lần một giây và do đó dẫn đến sự phát triển của một thiết kế mới nền móng, được biết đến như là đồng hồ ông nội.

Today, highly accurate timekeeping instruments set the beat for most electronic devices.
Ngày nay, những thiết bị đo lường thời gian với độ chính xác cao hình thành đánh bại hầu hết các thiết bị điện tử.

Nearly all computers contain a quartz-crystal clock to regulate their operation.
Gần như tất cả các máy tính đều có đồng hồ thạch anh để điều chỉnh sự vận hành của chúng.

Moreover, not only do time signals beamed down from Global Positioning System satellites calibrate the functions of precision navigation equipment, they do so as well for mobile phones, instant stock-trading systems and nationwide power-distribution grids.
Hơn nữa, những tín hiệu thời gian không chỉ được truyền từ các vệ tinh Hệ thống Định vị Toàn cầu hiệu chỉnh các chức năng của thiết bị định vị chính xác, nó làm như vậy cho điện thoại di động, hệ thống giao dịch chứng khoán tức thời và lưới điện phân phối toàn quốc.

So integral have these time-based technologies become to day-to-day existence that our dependency on them is recognised only when they fail to work.
Vì vậy, toàn bộ những công nghệ dựa trên thời gian này trở thành sự sống ngày qua ngày mà sự phụ thuộc của chúng ta vào chúng chỉ được nhận ra khi chúng không làm việc.

The nature of genius: Bản chất của thiên tài

 

A

There has always been ari interest in geniuses and prodigies.
Chúng ta luôn có một sự thích thú đặc biệt với các thiên tài và thần đồng.

The word ‘genius’, from the Latin gens (= family) and the term ‘genius’, meaning ‘begetter’, comes from the early Roman cult of a divinity as the head of the family.
Từ “thiên tài” có phần gốc “gens” trong tiếng Latin có nghĩa là “gia đình”, và cụm từ “thiên tài” có nghĩa là “người sinh ra”, dựa trên nghi lễ tôn thờ người đứng đầu gia đình ở đế chế La Mã cổ đại.

In its earliest form, genius was concerned with the ability of the head of the family, the paterfamilias, to perpetuate himself.
Trong hình thái nguyên thủy của mình, từ thiên tài được biết đến là những kỹ năng của người đứng đầu gia tộc, người lớn nhất trong gia đình, để tự duy trì bản thân mình.

Gradually, genius came to represent a person’s characteristics and thence an individual’s highest attributes derived from his ‘genius’ or guiding spirit.
Dần dần, từ “thiên tài” được sử dụng để chỉ những đặc trưng của một người cũng như những đóng góp nổi bật nhất của một cá nhân trên cơ sở bản chất “thiên tài” hoặc tinh thần dẫn dắt của người đó.

Today, people still look to stars or genes, astrology or genetics, in the hope of finding the source of exceptional abilities or personal characteristics.
Ngày nay, người ta vẫn nghiên cứu các vì sao hoặc gen, chiêm tinh học hoặc di truyền học, nhằm tìm ra nguồn cội của những kỹ năng phi thường hay những đặc điểm cá nhân vượt trội.

B

The concept of genius and of gifts has become part of our folk culture, and attitudes are ambivalent towards them.
Khái niệm thiên tài và năng khiếu đã trở thành một phần của bản sắc dân gian, và chúng ta luôn giữ một thái độ nước đôi đối với các khái niệm này.

We envy the gifted and mistrust them.
Chúng ta vừa ghen tị với những người có tài, lại vừa nghi ngờ họ.

In the mythology of giftedness, it is popularly believed that if people are talented in one area, they must be defective in another, that intellectuals are impractical, that prodigies burn too brightly too soon and burn out, that gifted people are eccentric, that they are physical weaklings, that there’s a thin line between genius and madness, that genius runs in families, that the gifted are so clever they don’t need special help, that giftedness is the same as having a high IQ, that some races are more intelligent ormusical or mathematical than others, that genius goes unrecognised and unrewarded, that adversity makes men wise or that people with gifts have a responsibility to use them.
Trong các giai thoại về năng khiếu, người ta hay cho rằng khi một người thông thạo lĩnh vực này thì tất sẽ yếu kém ở lĩnh vực khác, trí tuệ là những điều không có thực, các thần đồng tỏa sáng nhanh rồi cũng chóng tàn, thiên tài là những người lập dị, có cơ thể yếu ớt, người ta còn cho rằng ranh giới giữa thiên tài và tâm thần là rất mỏng manh, bản chất thiên tài di truyền giữa các thành viên trong gia đình, những người có tài vì quá thông minh nên không cần ai giúp đỡ, có tài có nghĩa là có chỉ số IQ cao, một số chủng tộc có trí thông minh hoặc có thiên hướng về âm nhạc hay có khả năng toán học cao hơn các chủng tộc khác, các thiên tài không được tín nhiệm và không được trao thưởng, những nghịch cảnh sẽ khiến cho con người có trí khôn, những người có năng khiếu luôn có nghĩa vụ phải sử dụng tài năng của mình.

Language has been enriched with such terms as ‘highbrow’, ‘egghead’, ‘blue-stocking’, ‘wiseacre’, ‘know-all’, ‘boffin’ and, for many, ‘intellectual’ is a term of denigration.
Nhiều từ ngữ liên quan xuất hiện ngày càng nhiều trong hệ thống ngôn ngữ như “người trí thức”, “nhà trí thức”, “nữ sĩ”, “kẻ ta đây”, “biết tuốt”, “nhà nghiên cứu”, và đối với một số người, từ “trí thức” được xem là sự nhạo báng.

C

The nineteenth century saw considerable interest in the nature of genius, and produced not a few studies of famous prodigies.
Thế kỷ thứ 19 chứng kiến một sự quan tâm đáng kể về bản chất của thiên tài, và nó đã sản sinh ra rất nhiều công trình nghiên cứu về những thần đồng nổi tiếng.

Perhaps for us today, two of the most significant aspects of most of these studies of genius are the frequency with which early encouragement and teaching by parents and tutors had beneficial effects on the intellectual, artistic or musical development of the children but caused great difficulties of adjustment later in their lives, and the frequency with which abilities went unrecognised by teachers and schools.
Cho đến hiện nay, có 2 trong số các phát hiện từ các công trình nghiên cứu thiên tài được xem là quan trọng nhất: một là tần suất mà cha mẹ và giáo viên thúc giục trẻ học tập từ sớm, điều này dẫn đến sự phát triển tốt về mặt trí tuệ, nghệ thuật hay âm nhạc cho trẻ nhỏ, tuy nhiên lại dẫn đến những khó khăn trong việc thích nghi với cuộc sống khi bọn chúng lớn lên, và hai là tần suất mà những khả năng này của trẻ nhỏ không được giáo viên hay trường học phát hiện.

However, the difficulty with the evidence produced by these studies, fascinating as they are in collecting together anecdotes and apparent similarities and exceptions, is that they are not what we would today call norm-referenced.
Tuy nhiên, khó khăn của các bằng chứng được tạo ra từ những nghiên cứu này, hấp dẫn như cái cách mà chúng được thu thập cùng với nhiều giai thoại cũng như những điểm tương đồng và khác biệt rõ ràng, là ở chỗ chúng không phải là thứ mà ngày nay chúng ta gọi là định mức tham chiếu.

In other words, when, for instance, information is collated about early illnesses, methods of upbringing, schooling, etc, we must also take into account information from other historical sources about how common or exceptional these were at the time.
Nói cách khác, ví dụ như trong khi thu thập thông tin về tiền sử bệnh tật, phương pháp nuôi dạy, học tập,… thì chúng ta cũng cần phải xem xét đến những yếu tố lịch sử khác, xem xem ở thời điểm đó thì những yếu tố này có phổ biến không, có đặc biệt không.

For instance, infant mortality was high and life expectancy much shorter than today, home tutoring was common in the families of the nobility and wealthy, bullying and corporal punishment were common at the best independent schools and, for the most part, the cases studied were members of the privileged classes.
Ví dụ như, tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh là rất cao, tuổi thọ lại ngắn hơn so với ngày nay, giáo dục tại nhà là một phương pháp phổ biến trong những gia đình quý tộc và giàu có, bạo lực học đường và nhục hình là những cảnh tượng thường thấy ngay cả ở những ngôi trường dân chủ nhất, và thông thường, các trường hợp được xem xét đến hầu như đều đến từ các thành viên thuộc giai cấp cao trong xã hội.

It was only with the growth of paediatrics and psychology in the twentieth century that studies could be carried out on a more objective, if still not always very scientific, basis.
Chỉ đến thế kỉ thứ 20, khi mà nhi khoa và tâm lý học ngày càng phát triển thì các nghiên cứu mới có thể được thực hiện dựa trên nền tảng lý luận khách quan, tuy nhiên không phải lúc nào cũng được như vậy.
D

Geniuses, however they are defined, are but the peaks which stand out through the mist of history and are visible to the particular observer from his or her particular vantage point.
Dù đánh giá dưới góc độ nào đi nữa, các thiên tài là những đỉnh núi mọc xuyên suốt chiều dài lịch sử, và họ luôn luôn được người khác nhìn thấy dưới một cách nhìn cụ thể.

Change the observers and the vantage points, clear away some of the mist, and a different lot of peaks appear.
Nếu chúng ta thay đổi người quan sát và góc độ quan sát đi, lại cố gắng xóa đi lớp sương mù, thì thêm những đỉnh cao khác lại xuất hiện.

Genius is a term we apply to those whom we recognise for their outstanding achievements and who stand near the end of the continuum of human abilities which reaches back through the mundane and mediocre to the incapable.
Thiên tài là một thuật ngữ dùng để chỉ những người mà chúng ta công nhận thông qua những thành tựu xuất sắc mà họ đạt được và họ là những người đạt đến cực điểm khả năng ở con người, với điểm cực còn lại nằm ở những công việc tay chân tầm thường và những người không có năng lực.

There is still much truth in Dr Samuel Johnson’s observation, The true genius Is a mind of large general powers, accidentally determined to some particular direction’.
Vẫn còn nhiều sự thật khác được phát hiện trong nghiên cứu của Tiến sĩ Samuel Johnson, đó chính là, thiên tài đích thực sở hữu một khối óc có năng lực chung ở nhiều lĩnh vực, và tình cờ những năng lực đó lại tập trung vào một hướng nhất định.

We may disagree with the ‘general’, for we doubt if all musicians of genius could have become scientists of genius or vice versa, but there is no doubting the accidental determination which nurtured or triggered their gifts into those channels into which they have poured their powers so successfully.
Chúng ta có thể sẽ không đồng ý với khái niệm “năng lực chung”, chúng ta thường nghi ngờ rằng liệu các nhạc công thiên tài có thể đã trở thành một nhà khoa học lỗi lạc hoặc ngược lại, nhưng không nghi ngờ gì về việc, một sự quyết tâm ngẫu nhiên nào đó đã nuôi dưỡng hoặc kích thích tài năng của họ vào cùng một hướng, và từ hướng đó mà họ vận dụng tài năng của mình một cách thành công.

Along the continuum of abilities are hundreds of thousands of gifted men and women, boys and girls.
Hàng trăm hàng nghìn người đàn ông, phụ nữ, cháu trai hay cháu gái đều nằm trong danh sách tài năng này.

E

What we appreciate, enjoy or marvel at in thè works of genius or the achievements of prodigies are the manifestations of skills or abilities which are similar to, but so much superior to, our own.
Những gì mà chúng ta ưa chuộng, thưởng thức hoặc kinh ngạc, đều là những tác phẩm do thiên tài tạo ra hay những thành tích mà các thần đồng đạt được, và những thứ này đều là sự thể hiện ra bên ngoài các kỹ năng hoặc khả năng tuy tương đồng nhưng vượt trội hơn khả năng vốn có của bản thân ta rất nhiều.

But that their minds are not different from our own is demonstrated by the fact that the hard-won discoveries of scientists like Kepler or Einstein become the commonplace knowledge of schoolchildren and the once outrageous shapes and colours of an artist like Paul Klee so soon appear on the fabrics we wear.
Nhưng trí tuệ của họ không khác gì của chúng ta, điều này được chứng minh bởi sự thật là những phát hiện vĩ đại bởi các nhà khoa học như Kepler hay Einstein ngày nay trở thành mảng kiến thức nền tảng đối với các em học sinh, hoặc là, những hình thù và màu sắc từng được nhận định là kỳ quái do họa sĩ Paul Klee thiết kế nay lại trở thành những kiểu hoa văn thường thấy trên các loại quần áo mà chúng ta đang mặc.

This does not minimise the supremacy of their achievements, which outstrip our own as the sub-four-minute milers outstrip our jogging.
Tuy nhiên điều này không làm cho tính ưu việt của họ giảm đi khi so sánh với thành tích của ta, mặt khác, họ còn bỏ xa chúng ta nhiều, cũng giống như cách mà những vận động viên chạy đua trong khoảng thời gian dưới 4 phút đánh bại những bước chạy của chúng ta vậy.

F

To think of geniuses and the gifted as having uniquely different brains is only reasonable If we accept that each human brain is uniquely different.
Quan niệm rằng thiên tài và những người có năng khiếu sở hữu những bộ não đặc biệt chỉ có ý nghĩa nếu chúng ta công nhận rằng bộ não của mỗi người đều độc nhất vô nhị.

The purpose of instruction is to make US even more different from one another, and in the process of being educated we can learn from the achievements of those more gifted than ourselves.
Mục đích của chương trình giảng dạy là nhằm giúp cho chúng ta trở thành những cá nhân khác biệt và duy nhất, và trong quá trình học tập, chúng ta cũng có thể học hỏi từ các thành tích do những người có tài hơn mình đạt được.

But before we try to emulate geniuses or encourage our children to do so we should note that some of the things we learn from them may prove unpalatable.
Nhưng trước khi chúng ta muốn cạnh tranh với thiên tài hoặc là cố khuyến khích con cái làm như thế, chúng ta nên biết rằng có một số thứ mà chúng ta học hỏi từ những người có năng khiếu đôi khi không hề dễ chịu.

We may envy their achievements and fame, but we should also recognise the price they may have paid in terms of perseverance, single-mindedness, dedication, restrictions on their personal lives, the demands upon their energies and time, and how often they had to display great courage to preserve their integrity or to make their way to the top.
Chúng ta có thể ganh tị với thành tựu và danh tiếng của họ, nhưng chúng ta cũng nên nhìn nhận những cái giá mà họ phải trả cho sự kiên trì, chuyên tâm, sự cống hiến, những hạn chế trong đời sống thường ngày, nhu cầu sử dụng năng lượng và thời gian cũng như phải luôn luôn can đảm để bảo vệ quan điểm và vươn đến đỉnh vinh quang.

G

Genius and giftedness are relative descriptive terms of no real substance.
“Thiên tài” và “người có năng khiếu” là những thuật ngữ miêu tả tuy liên quan nhưng thực chất chỉ mang tính tương đối.

We may, at best, give them some precision by defining them and placing them in a context but, whatever we do, we should never delude ourselves into believing that gifted children or geniuses are different from the rest of humanity, save in the degree to which they have developed the performance of their abilities.
Chúng ta chỉ có thể khiến cho thuật ngữ trở nên chính xác hơn khi đặt nó vào một ngữ cảnh cụ thể, tuy nhiên, dù cho chúng ta có làm gì đi nữa, chúng ta không bao giờ được phép tự huyễn hoặc bản thân rằng thiên tài và những đứa trẻ có năng khiếu là những cá nhân dị biệt so với phần còn lại của xã hội, mà thật ra họ là những người biết tận dụng triệt để khả năng của mình để tạo ra hiệu suất.

Striking back at lightning with lazers: Chống sét bằng tia lazer

 

A

Seldom is the weather more dramatic than when thunderstorms strike.
Thời tiết hiếm khi có thay đổi mãnh liệt hơn như khi sét đánh.

Their electrical fury inflicts death or serious injury on around 500 people each year in the United States alone.
Sự mãnh liệt của dòng điện đã gây ra ra các thương vong hay những tổn thương nghiêm trọng cho khoảng 500 người mỗi năm chỉ riêng ở Mỹ.

As the clouds roll in, a leisurely round of golf can become a terrifying dice with death - out in the open, a lone golfer may be a lightning bolt’s most inviting target.
Khi những đám mây kéo đến nhiều, một trận golf giải trí ở ngoài trời có thể trở thành một trò may rủi với cái chết, một người chơi golf có thể là một mục tiêu thu hút nhất của sét.

And there is damage to property too.
Và cũng có sự phá hủy đến các tòa nhà.

Lightning damage costs American power companies more than $100 million a year.
Sự phá hủy của sét khiến cho các công ty năng lượng của Mỹ mất hơn 100 triệu dollar mỗi năm.
 
B
But researchers in the United States and Japan are planning to hit back.
Nhưng những nhà nghiên cứu ở Mỹ và Nhật bản đang lên kế hoạch để đối phó với vấn nạn này.

Already in laboratory trials they have tested strategies for neutralising the power of thunderstorms, and this winter they will brave real storms, equipped with an armoury of lasers that they will be pointing towards the heavens to discharge thunderclouds before lightning can strike.
Trong các thử nghiệm ở phòng thí nghiệm họ đã thử nghiệm các chiến lược để trung hòa sức mạnh của sấm sét, và mùa đông này họ sẽ đương đầu với những cơn bão thật sự, được trang bị với một kho vũ khí laze mà họ sẽ hướng lên bầu trời để phóng mây dông trước khi sấm chớp có thể đánh.

C

The idea of forcing storm clouds to discharge their lightning on command is not new.
Ý tưởng buộc các đám mây bão phóng thích tia sét theo ý của mình không phải là mới.

In the early 1960s, researchers tried firing rockets trailing wires into thunderclouds to set up an easy discharge path for the huge electric charges that these clouds generate.
Những năm đầu 1960, những nhà nghiên cứu đã thử bắn tên lửa vào mây dông để tạo đường dẫn để phóng thích dễ dàng cho những vật tích điện lớn mà những đám mây tạo ra.

The technique survives to this day at a test site in Florida run by the University of Florida, with support from the Electrical Power Research Institute (EPRI), based in California.
Kỹ thuật này tồn tại cho đến ngày nay ở một điểm kiểm tra ở Floria thực hiện bởi Đại học Floria, với sự ủng hộ từ Viện nghiên cứu năng lượng điện năng (EPRI), trụ sở tại California.

EPRI, which is funded by power companies, is looking at ways to protect the United States’ power grid from lightning strikes.
Viện nghiên cứu năng lượng điện năng được tài trợ bởi các công ty năng lượng đang tìm cách để bảo vệ lưới điện của Mỹ khỏi sét.

‘We can cause the lightning to strike where we want it to using rockets,’ says Ralph Bernstein, manager of lightning projects at EPRI.
”Chúng ta có thể sử dụng những tia chớp để tấn công nơi mà chúng ta muốn nó dùng tên lửa” Ralph Bernstein nói, giám đốc của dự án tia chớp ở EPRI cho biết.

The rocket site is providing precise measurements of lightning voltages and allowing engineers to check how electrical equipment bears up.
Vị trí tia chớp cung cấp số đo chính xác điện áp của sấm sét và cho phép kỹ sư kiểm tra các thiết bị điện chống đỡ như thế nào.

D

But while rockets are fine for research, they cannot provide the protection from lightning strikes that everyone is looking for.
Nhưng trong khi tên lửa được sử dụng tốt cho việc nghiên cứu, thì họ không thể cung cấp việc đề phòng khỏi bị khỏi bị sét đánh mà mọi người đang tìm kiếm.

The rockets cost around $1,200 each, can only be fired at a limited frequency and their failure rate is about 40 per cent.
Những tên lửa có giá khoảng $1,200 mỗi cái, chỉ có thể được bắn ở một tần số hạn chế và tỷ lệ thất bại của chúng là khoảng 40 phần trăm.

And even when they do trigger lightning, things still do not always go according to plan.
Và ngay cả khi chúng kích hoạt sét, mọi thứ vẫn không luôn luôn đi theo kế hoạch.

‘Lightning is not perfectly well behaved,’ says Bernstein.
"Sét không hoàn toàn hoạt động tốt, 'Bernstein nói.

‘Occasionally, it will take a branch and go someplace it wasn’t supposed to go".
"Thỉnh thoảng, nó sẽ mất một nhánh và đến một nơi nào đó nó không có ý định đến".

E

And anyway, who would want to fire streams of rockets in a populated area? ‘What goes up must come down,’ points out Jean-Claude Diels of the University of New Mexico.
Dù sao thì ai lại muốn phóng một loạt tên lửa ở khu vực đông dân cư cơ chứ? Jean-Claude Diels, đại học New Mexico, đã từng chỉ ra rằng 'Cái gì đi lên cũng sẽ đi xuống,'.

Diels is leading a project, which is backed by EPRI, to try to use lasers to discharge lightning safely- and safety is a basic requirement since no one wants to put themselves or their expensive equipment at risk.
Diels đang tiến hành một dự án với sự hỗ trợ của EPRI, dự án này nghiên cứu sử dụng tia laser để phóng thích sét an toàn, và an toàn là yêu cầu cơ bản vì không ai muốn đặt mình hay các thiết bị đắt tiền trong nguy hiểm.

With around $500,000 invested so far, a promising system is just emerging from the laboratory.
Với khoảng 500,000$ tiền đầu tư, cho đến nay người ta đã thiết kế được một hệ thống phòng chống sét đầy hứa hẹn từ phòng thí nghiệm.

F

The idea began some 20 years ago, when high-powered lasers were revealing their ability to extract electrons out of atoms and create ions.
Ý tưởng này bắt đầu từ 20 năm trước, khi những tia lazer năng lượng cao cho thấy khả năng của nó có thể tách những electron ra khỏi nguyên tử và tạo ra các ion.

If a laser could generate a line of ionisation in the air all the way up to a storm cloud, this conducting path could be used to guide lightning to Earth, before the electric field becomes strong enough to break down the air in an uncontrollable surge.
Nếu một tia lazer có thể tạo ra một dòng ion hóa trong không khí, và đi lên đám mây bão, con đường này có thể được sử dụng để hướng sét tới Trái Đất, trước khi dòng điện trở nên đủ mạnh để xé toạc không khí một cách đột ngột không kiểm soát được.

To stop the laser itself being struck, it would not be pointed straight at the clouds.
Để ngăn chặn tia laze tự đánh vào nó, nó sẽ không được nhắm thẳng vào các đám mây.

Instead it would be directed at a mirror, and from there into the sky.
Thay vào đó nó được nhắm thẳng vào một cái gương, và từ đó đi lên bầu trời.

The mirror would be protected by placing lightning conductors close by.
Chiếc gương này sẽ được bảo vệ bằng cách đặt gần dây dẫn sét.

Ideally, the cloud-zapper (gun) would be cheap enough to be installed around all key power installations, and portable enough to be taken to international sporting events to beam up at brewing storm clouds.
Lý tưởng thì bộ súng này sẽ đủ rẻ để có thể được cài vào tất cả thiết bị năng lượng chính, và dễ dàng được đưa vào những sự kiện thể thao quốc tế để chiếu lên những đám mây bão.

G

However, there is still a big stumbling block.
Tuy nhiên, vẫn có một hòn đá lớn cản đường.

The laser is no nifty portable: it’s a monster that takes up a whole room.
Lazer không thể di động dễ dàng: Nó là một tên quái vật có thể chiếm lấy cả không gian.

Diels is trying to cut down the size and says that a laser around the size of a small table is in the offing.
Diels đang cố gắng cắt giảm kích cỡ và nói rằng lazer với kích cỡ của một cái bàn nhỏ sắp xảy ra.

He plans to test this more manageable system on live thunderclouds next summer.
Ông định kiểm tra một hệ thống có thể quản lí dễ dàng hơn trong đám mây dông thực sự vào mùa hè tới.

H

Bernstein says that Diels’s system is attracting lots of interest from the power companies.
Bernstein nói rằng hệ thống của Diels đang thu hút nhiều sự chú ý của các công ty năng lượng.

But they have not yet come up with the $5 million that EPRI says will be needed to develop a commercial system, by making the lasers yet smaller and cheaper.
Tuy nhiên họ chưa quyết định là với 5 triệu đô mà EPRI cho rằng sẽ cần để phát triển một hệ thống thương mại, bằng làm cho những tia laser nhỏ hơn và rẻ hơn.

"I cannot say I have money yet, but I’m working on it,’ says Bernstein.
"Tôi không thể nói rằng tôi không có tiền tuy nhiên tôi vẫn đang xoay sở với nó” ông Bernstein nói.

He reckons that the forthcoming field tests will be the turning point - and he’s hoping for good news.
Ông cho rằng những thí nghiệm trong lĩnh vực sắp tới sẽ là bước ngoặt - và ông ta đang hy vọng sẽ gặp được tin tốt lành.

Bernstein predicts ‘an avalanche of interest and support’ if all goes well.
Bernstein dự đoán “một loạt các đầu tư và hỗ trợ dồn dập” sẽ đến nếu mọi việc suôn sẻ.

He expects to see cloud-zappers eventually costing $50,000 to $100,000 each.
Ông ta hy vọng sẽ làm được chi phí của một bộ súng cuối cùng chỉ còn 50,000 đến 100,000$.

I

Other scientists could also benefit.
Các nhà khoa học khác cũng được hưởng lợi.

With a lightning ‘switch’ at their fingertips, materials scientists could find out what happens when mighty currents meet matter.
Với một tia chớp 'chuyển đổi' dễ dàng, các nhà khoa học vật liệu có thể tìm hiểu những gì sẽ xảy ra khi dòng điện cực mạnh gặp vấn đề.

Diels also hopes to see the birth of ‘interactive meteorology’ - not just forecasting the weather but controlling it.
Diels cũng hy vọng sẽ cho ra ra đời ngành "khí tượng tương tác '- không chỉ là dự báo thời tiết mà còn kiểm soát được nó.

‘If we could discharge clouds, we might affect the weather,’ he says.
"Nếu chúng ta có thể xua đi những đám mây, chúng ta có thể tác động lên thời tiết," ông nói.

J

And perhaps, says Diels, we’ll be able to confront some other meteorological menaces.
Và có lẽ, Diels nói, chúng ta sẽ có thể đối đầu với một số mối đe dọa khí tượng khác.

‘We think we could prevent hail by inducing lightning,’ he says.
"Chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể ngăn chặn mưa đá bằng cách gây sét", ông nói.

Thunder, the shock wave that comes from a lightning flash, is thought to be the trigger for the torrential rain that is typical of storms.
Sấm sét, sóng xung kích mà đến từ một tia sét đánh, được cho là nguyên nhân dẫn đến những cơn mưa xối xả - điển hình của các cơn bão.

A laser thunder factory could shake the moisture out of clouds, perhaps preventing the formation of the giant hailstones that threaten crops.
Một nhà máy sản xuất sấm sét lazer có thể rút phần ẩm ra khỏi đám mây, có lẽ để ngăn ngừa sự hình thành của các hạt mưa đá lớn khổng lồ đe dọa mùa màng.

With luck, as the storm clouds gather this winter, laser-toting researchers could, for the first time, strike back.
Nếu may mắn, khi những đám mây trong bão được thu thập trong mùa đông này, các nhà nghiên cứu lazer có thể, lần đầu tiên, tấn công trở lại nó.

Collecting Ant Specimens

 

A

Collecting ants can be as simple as picking up stray ones and placing them in a glass jar, or as complicated as completing an exhaustive survey of all species present in an area and estimating their relative abundances.

Thu thập kiến ​​có thể đơn giản như nhặt những con lạc đường và đặt chúng vào bình thủy tinh, hoặc phức tạp như khi hoàn thành một cuộc khảo sát đầy đủ về tất cả các loài hiện diện trong một khu vực và ước lượng độ phong phú tương đối của chúng.

The exact method used will depend on the final purpose of the collections.
Phương pháp chính xác được sử dụng sẽ phụ thuộc vào mục đích cuối cùng của bộ sưu tập.

For taxonomy, or classification, long series, from a single nest, which contain all castes (workers, including majors and minors, and, if present, queens and males) are desirable, to allow the determination of variation within species.
Đối với phân loại, hoặc phân loại, chuỗi dài, từ một tổ duy nhất có chứa tất cả các hiến pháp (người lao động, bao gồm các chuyên ngành và người vị thành niên, và, nếu có, hoàng hậu và nam giới) là mong muốn, để cho phép xác định biến thể trong loài.

For ecological studies, the most important factor is collecting identifiable samples of as many of the different species present as possible.
Đối với các nghiên cứu về sinh thái, yếu tố quan trọng nhất là thu thập các mẫu có thể nhận dạng được của nhiều loài khác nhau hiện nay có thể.

Unfortunately, these methods are not always compatible.
Thật không may, những phương pháp này không phải lúc nào cũng tương thích.

The taxonomist sometimes overlooks whole species in favour of those groups currently under study, while the ecologist often collects only a limited number of specimens of each species, thus reducing their value for taxonomic investigations.
Các nhà phân loại học đôi khi nhìn nhận toàn bộ loài đối với những nhóm hiện đang được nghiên cứu, trong khi nhà sinh thái học chỉ thu thập được một số mẫu vật của mỗi loài, do đó làm giảm giá trị của chúng trong các điều tra phân loại.

B

To collect as wide a range of species as possible, several methods must be used.
Để thu thập càng nhiều loài càng tốt, phải sử dụng một số phương pháp.

These include hand collecting, using baits to attract the ants, ground litter sampling, and the use of pitfall traps.
Chúng bao gồm thu thập bằng tay, sử dụng mồi để thu hút các kiến, lấy mẫu đất và sử dụng bẫy pitfall.

Hand collecting consists of searching for ants everywhere they are likely to occur.
Thu thập bằng tay bao gồm tìm kiếm kiến ​​ở mọi nơi mà chúng có thể xảy ra.

This includes on the ground, under rocks, logs or other objects on the ground, in rotten wood on the ground or on trees, in vegetation, on tree trunks and under bark.
Điều này bao gồm trên mặt đất, dưới đá, các khúc gỗ hoặc các vật khác trên mặt đất, bằng gỗ thối trên mặt đất hoặc trên cây, trong thực vật, trên thân cây và dưới vỏ cây.

When possible, collections should be made from nests or foraging columns and at least 20 to 25 individuals collected.
Khi có thể, các bộ sưu tập phải được làm từ các tổ hoặc cột tìm kiếm và ít nhất 20 đến 25 cá nhân được thu thập.

This will ensure that all individuals are of the same species, and so increase their value for detailed studies.
Điều này sẽ đảm bảo rằng tất cả các cá thể đều thuộc cùng một loài, và do đó tăng giá trị cho các nghiên cứu chi tiết.

Since some species are largely nocturnal, collecting should not be confined to daytime.
Vì một số loài là vào ban đêm, nên việc thu thập không nên chỉ giới hạn ở ban ngày.

Specimens are collected using an aspirator (often called a pooter), forceps, a fine, moistened paint brush, or fingers, if the ants are known not to sting.
Mẫu được thu thập bằng cách sử dụng một máy hút (thường được gọi là pooter), kẹp, một bàn chải mịn, ẩm, hoặc ngón tay, nếu kiến ​​không biết là sting.

Individual insects are placed in plastic or glass tubes (1.
Côn trùng cá thể được đặt trong ống nhựa hoặc thủy tinh (dung tích 1.

5-3-0 ml capacity for small ants, 5-8 ml for larger ants) containing 75% to 95% ethanol.
5-3-0 ml cho kiến ​​nhỏ, 5-8 ml đối với các con kiến ​​lớn) chứa 75% đến 95% ethanol.

Plastic tubes with secure tops are better than glass because they are lighter, and do not break as easily if mishandled.
Ống nhựa có nắp an toàn tốt hơn kính vì chúng nhẹ hơn và không dễ vỡ nếu không được xử lý.

C

Baits can be used to attract and concentrate foragers.
Baits có thể được sử dụng để thu hút và tập trung những người rình rập.

This often increases the number of individuals collected and attracts species that are otherwise elusive.
Điều này thường làm tăng số lượng cá thể thu thập và thu hút được các loài mà nếu không thì sẽ khó nắm bắt.

Sugars and meats or oils will attract different species and a range should be utilised.
Đường và thịt hoặc dầu sẽ thu hút các loài khác nhau và phạm vi nên được sử dụng.

These baits can be placed either on the ground or on the trunks of trees or large shrubs.
Những mồi này có thể được đặt trên mặt đất hoặc trên các thân cây hoặc bụi cây lớn.

When placed on the ground, baits should be situated on small paper cards or other flat, light-coloured surfaces, or in test-tubes or vials.
Khi đặt trên mặt đất, mồi nên được đặt trên giấy nhỏ hoặc các mặt phẳng, ánh sáng màu khác, hoặc trong ống nghiệm hoặc lọ.

This makes it easier to spot ants and to capture them before they can escape into the surrounding leaf litter.
Điều này làm cho dễ dàng hơn để phát hiện ra kiến ​​và nắm bắt chúng trước khi chúng có thể trốn vào lều rác xung quanh.

D

Many ants are small and forage primarily in the layer of leaves and other debris on the ground.
Nhiều kiến ​​là nhỏ và thức ăn gia súc chủ yếu ở lớp lá và các mảnh vụn khác trên mặt đất.

Collecting these species by hand can be difficult.
Thu thập các loài này bằng tay có thể rất khó khăn.

One of the most successful ways to collect them is to gather the leaf litter in which they are foraging and extract the ants from it.
Một trong những cách thành công nhất để thu thập chúng là thu thập các lát lá trong đó họ đang tìm kiếm và trích xuất các kiến ​​từ nó.

This is most commonly done by placing leaf litter on a screen over a large funnel, often under some heat.
Điều này thường được thực hiện bằng cách đặt rác trên một màn hình trên một phễu lớn, thường dưới hơi nóng.

As the leaf litter dries from above, ants (and other animals) move downward and eventually fall out the bottom and are collected in alcohol placed below the funnel.
Khi mùn lá khô từ trên cao, kiến ​​(và các động vật khác) di chuyển xuống và cuối cùng rơi ra phía dưới và được thu thập trong rượu đặt bên dưới phễu.

This method works especially well in rain forests and marshy areas.
Phương pháp này đặc biệt hiệu quả trong rừng mưa và vùng đầm lầy.

A method of improving the catch when using a funnel is to sift the leaf litter through a coarse screen before placing it above the funnel.
Một phương pháp để cải thiện việc bắt khi sử dụng một kênh là để sàng rác rác thông qua một màn hình thô trước khi đặt nó lên phía trên ống khói.

This will concentrate the litter and remove larger leaves and twigs.
Điều này sẽ tập trung rác thải và loại bỏ các lá và cành cây lớn hơn.

It will also allow more litter to be sampled when using a limited number of funnels.
Nó cũng sẽ cho phép nhiều mẫu hơn được lấy mẫu khi sử dụng một số lượng kênh hạn chế.

E

The pitfall trap is another commonly used tool for collecting ants.
Cái bẫy pitfall là một công cụ thường được sử dụng để thu thập kiến.

A pitfall trap can be any small container placed in the ground with the top level with the surrounding surface and filled with a preservative.
Một cái bẫy pitfall có thể là bất cứ cái thùng nhỏ nào được đặt trong lòng đất với mức cao nhất với bề mặt xung quanh và chứa chất bảo quản.

Ants are collected when they fall into the trap while foraging.
Kiến được thu thập khi chúng rơi vào bẫy trong khi tìm kiếm.

The diameter of the traps can vary from about 18 mm to 10 cm and the number used can vary from a few to several hundred.
Đường kính của bẫy có thể thay đổi từ khoảng 18 mm đến 10 cm và số lượng sử dụng có thể thay đổi từ vài đến vài trăm.

The size of the traps used is influenced largely by personal preference (although larger sizes are generally better), while the number will be determined by the study being undertaken.
Kích thước của bẫy được sử dụng chủ yếu là do sở thích cá nhân (mặc dù kích thước lớn hơn nói chung là tốt hơn), trong khi số lượng sẽ được xác định bởi nghiên cứu đang được tiến hành.

The preservative used is usually ethylene glycol or propylene glycol, as alcohol will evaporate quickly and the traps will dry out.
Chất bảo quản được sử dụng thường là ethylene glycol hoặc propylen glycol, vì rượu sẽ bay hơi nhanh chóng và bẫy sẽ khô.

One advantage of pitfall traps is that they can be used to collect over a period of time with minimal maintenance and intervention.
Một lợi thế của bẫy pitfall là chúng có thể được sử dụng để thu thập qua một khoảng thời gian với sự bảo trì và can thiệp tối thiểu.

One disadvantage is that some species are not collected as they either avoid the traps or do not commonly encounter them while foraging.
Một bất lợi là một số loài không được thu thập vì họ hoặc tránh các bẫy hoặc thường không gặp chúng trong khi tìm kiếm.

Air traffic control in the USA: KIỂM SOÁT KHÔNG LƯU Ở MỸ


A

An accident that occurred in the skies over the Grand Canyon in 1956 resulted in the establishment of the Federal Aviation Administration (FAA) to regulate and oversee the operation of aircraft in the skies over the United States, which were becoming quite congested.     

Một vụ tai nạn đã xảy ra trên vùng trời Grand Canyon vào năm 1956 đã dẫn tới sự thành lập của Cục quản lý hàng không liên bang (FAA) để điều phối và quan sát sự vận hành của máy bay trên khắp các vùng trời nước Mỹ, nơi mà đang trở nên khá chật chội.


The resulting structure of air traffic control has greatly increased the safety of flight in the United States, and similar air traffic control procedures arealso in place over much of the rest of the world.      
    

Kết quả của cấu trúc kiểm soát không lưu đã gia tăng đáng kể sự an toàn của các chuyến bay ở Mỹ, và các thủ tục kiểm soát không lưu tương tự cũng đang diễn ra ở nhiều nơi khác trên thế giới.

B

Rudimentary air traffic control (ATC) existed well before the Grand Canyon disaster.           

Kiểm soát không lưu thô sơ (ATC) đã tồn tại từ trước thảm họa Grand Canyon.


As early as the 1920s, the earliest air traffic controllers manually guided aircraft in the vicinity of the airports, using lights and flags, while beacons and flashing lights were placed along cross-country routes to establish the earliest airways.

Vào đầu những năm 1920, những người kiểm soát không lưu đầu tiên thường hướng dẫn máy bay trong vùng lân cận sân bay, bằng cách sử dụng đèn và cờ, trong khi đó các cảnh báo và đèn nhấp nháy được đặt ở các tuyến đường xuyên quốc gia để thiết lập các đường bay đầu tiên.


However, this purely visual system was useless in bad weather, and, by the 1930s, radio communication was coming into use for ATC. 

Tuy nhiên, hệ thống dựa hoàn toàn vào thị giác này vô dụng trong điều kiện thời tiết xấu, và, sau những năm 1930, thông tin vô tuyến đã được đưa vào sử dụng cho ATC.


The first region to have something approximating today’s ATC was New York City, with other major metropolitan areas following soon after.

Khu vực đầu tiên để có những thứ tương tự như ATC ngày nay là thành phố New York, tiếp sau đó là với những khu vực đô thị lớn khác.

C

In the 1940s, ATC centres could and did take advantage of the newly developed radar and improved radio communication brought about by the Second World War, but the system remained rudimentary.          

Trong những năm 1940, các trung tâm ATC có thể đã tận dụng lợi thế của các radar mới được phát triển và đã cả thiện hệ thống vô tuyến đã được mang ra từ Thế chiến thứ 2, nhưng hệ thống vẫn thô sơ.


It was only after the creation of the FAA that full-scale regulation of America’s airspace took place, and this was fortuitous, for the advent of the jet engine suddenly resulted in a large number of very fast planes, reducing pilots’ margin of error and practically demanding some set of rules to keep everyone well separated and operating safely in the air.

Chỉ sau khi có sự thành lập của FAA thì sự điều khiển của không phận Mỹ mới được tiến hành, và điều này thật tình cờ cho động cơ phản lực, đột ngột dẫn tới sự phát triển của một số lượng lớn máy bay tốc độ cao, làm giảm lỗi sai của phi công và thực tế đòi hỏi một vài quy tắc để giữ khoảng cách của mọi người và hoạt động an toàn trên không.

D


Many people think that ATC consists of a row of controllers sitting in front of their radar screens at the nation’s airports, telling arriving and departing traffic what to do.    

Rất nhiều người nghĩ rằng ATC bao gồm một hàng các kiểm soát viên ngồi trước màn hình radar của họ, chỉ dẫn các việc phải làm cho không lưu tới và khởi hành.


This is a very incomplete part of the picture.

Đây quả thực là một mảnh ghép chưa hoàn thiện của bức tranh.


The FAA realised that the airspace over the United States would at any time have many different kinds of planes, flying for many different purposes, in a variety of weather conditions, and the same kind of structure was needed to accommodate all of them.  

FAA nhận ra rằng không phận trên khắp nước Mỹ bất cứ khi nào cũng có nhiều loại máy bay khác nhau, bay với các mục đích khác nhau, trong những điều kiện thời tiết khác nhau và trong cùng một cấu trúc nên cần thiết phải sắp xếp tất cả chúng lại.

E

To meet this challenge, the following elements were put into effect.           

Để đối mặt với thách thức này, các yếu tố sau đây đã được đưa vào.


First, ATC extends over virtually the entire United States.   

Đầu tiên, ATC mở rộng theo dõi trên toàn bộ nước Mỹ.


In general, from 365m above the ground and higher, the entire country is blanketed by controlled airspace.    

Nói chung, từ độ cao 365m trở lên so với mặt đất, toàn bộ quốc gia sẽ bị bao phủ bởi không phận bị kiểm soát.


In certain areas, mainly near airports, controlled airspace extends down to 215m above the ground, and, in the immediate vicinity of an airport, all the way down to the surface.       
    

Ở một số vùng đặc biệt, chủ yếu gần các sân bay, không phận bị kiểm soát nới rộng xuống 215m so với mặt đất, và, trong khu vực lân cận sân bay, tất cả lối xuống mặt đất.


Controlled airspace is that airspace in which FAA regulations apply.      
    

Không phận được kiểm soát là không phận mà FAA quy định áp dụng.


Elsewhere, in uncontrolled airspace, pilots are bound by fewer regulations.  
         

Ở những nơi khác, trong không phận không được kiểm soát, phi công bị rẳng buộc bởi ít quy định hơn.


In this way, the recreational pilot who simply wishes to go flying for a while without all the restrictions imposed by the FAA has only to stay in uncontrolled airspace, below 365m, while the pilot who does want the protection afforded by ATC can easily enter the controlled airspace.    
     

Bằng cách này, những phi công bay để giải trí, người đơn thuần muốn bay trong một khoảng thời gian mà không chịu bất cứ hạn chế nào bởi FAA chỉ có thể ở trong vùng không phận không kiểm soát, dưới 365m, trong khi những phi công muốn có sự bảo vệ bởi ATC có thể dễ dàng bay vào vùng không phận được kiểm soát.

F

The FAA then recognised two types of operating environments.     

FAA về sau đã công nhận hai loại môi trường hoạt động.


In good meteorological conditions, flying would be permitted under Visual Flight Rules (VFR), which suggests a strong reliance on visual cues to maintain an acceptable level of safety.   
     

Trong điều kiện thời tiết tốt, việc sử dụng máy bay có thể được cấp phép dưới nguyên tắc VFR (các nguyên tắc cho chuyến bay có thể dùng mắt thường định vị được), điều này gợi ra một sự phụ thuộc lớn vào các tín hiệu thị giác để duy trì độ an toàn có thể chấp nhận được.


Poor visibility necessitated a set of Instrumental Flight Rules (IFR), underwhich the pilot relied on altitude and navigational information provided bythe plane’s instrument panel to fly safely.    

Tầm nhìn hạn chế cần nguyên tắc IFR, nguyên tắc mà các phi công sẽ điều khiển máy bay theo thông tin cung cấp bởi thiết bị trên máy bay để bay một cách an toàn.


On a clear day, a pilot in controlled airspace can choose a VFR or IFR flight plan, and the FAA regulations were devised in a way which accommodates both VFR and IFR operations in the same airspace.      

Vào những ngày đẹp trời, một phi công bay trong không phận được kiểm soát có thể lựa chọn kế hoạch bay là VFR hoặc IFR, và các quy định FAA đã đưa ra một cách, cách mà bố trí cả VFR và IFR hoạt động trong cùng một không phận.


However, a pilot can only choose to fly IFR if they possess an instrument rating which is above and beyond the basic pilot’s license that must also be held.         

Tuy nhiên, phi công chỉ được chọn bay IFR nếu họ đưa ra một xếp hạng thiết bị ở trên hoặc vượt ra ngoài giấy phép phi công cơ bản thì điều đó cũng phải được tổ chức.


Controlled airspace is divided into several different types, designated byletters of the alphabet.        

Không phận được kiểm soát được chia ra thành nhiều loại khác nhau, được đặt tên bằng các chữ cái trong bảng chữ cái.

G

Uncontrolled airspace is designated Class F, while controlled airspace below 5,490m above sea level and not in the vicinity of an airport is Class E.        

Không phận không kiểm soát được đặt là Class F, trong khi không phận kiểm soát dưới 5,490m so với mực nước biển và không trong khu vực lân cận sân bay là Class E.


All airspace above 5,490m is designated Class A.   

Tất cả không phận trên 5,490m được chỉ định là Class A.


The reason for the division of Class E and Class A airspace stems from the type of planes operating in them.     
 

Lý do phân chia thành các không phận Class A và Class E xuất phát từ các loại máy bay hoạt động trong các nhóm đó.


Generally, Class E airspace is where one finds general aviation aircraft (few of which can climb above 5,490m anyway), and commercial turboprop aircraft.  
     

Nhìn chung, không phận Class E là nơi người ta tìm thấy những chiếc máy bay phổ biến của ngành hàng không (một vài trong số đó có thể bay lên trên 5,490m), và máy bay phản lực phục vụ mục đích thương mại.


Above 5,490m is the realm of the heavy jets, since jet engines operate more efficiently at higher altitudes.     

Độ cao trên 5,490m là vương quốc của các máy bay hạng nặng, kể từ khi động cơ phản lực hoạt động hiệu quả hơn ở độ cao cao hơn.


The difference between Class E and A airspace is that in Class A, all operations are IFR, and pilots must be instrument-rated,
that is, skilled and licensed in aircraft instrumentation.

Điểm khác biệt giữa không phận Class A và Class E là, trong Class A tất cả các hoạt động chịu sự chi phối của IFR, và các phi công phải có công cụ đánh giá cao, đó là, có kỹ năng và chứng chỉ trong điều khiển máy bay.


This is because ATC control of the entire space is essential. 
         

Điều này bởi vì việc ATC kiểm soát toàn bộ không phận là điều cần thiết.


Three other types of airspace, Classes D, C and B, govern the vicinity of airports.

Ba loại không phận khác là Class D, C và B, chi phối các khu vực lân cận sân bay.


These correspond roughly to small municipal, medium-sized metropolitan and major metropolitan airports respectively, and encompass ani ncreasingly rigorous set of regulations.    

Những nhóm này tương ứng lần lượt với sân bay của thành phố nhỏ, đô thị tầm trung và đô thị lớn, và bao gồm một tập hợp các quy định ngày càng khắt khe.


For example, all a VFR pilot has to do to enter Class C airspace is establish two-way radio contact with ATC.         

Ví dụ như, việc tất cả các phi công VFR phải làm để vào không phận Class C là thiết lập liên lạc 2 chiều qua vô tuyến với ATC.


No explicit permission from ATC to enter is needed, although the pilot must continue to obey all regulations governing VFR flight.    

Sự không cho phép gia nhập rõ ràng từ ATC là cần thiết, mặc dù các phi công phải tuân thủ chuyến bay theo VFR.


To enter Class B airspace, such as on approach to a major metropolitan airport, an explicit ATC clearance is required.    

Để vào vùng không phận Class B, chẳng hạn như tiếp cận vào khu vực sân bay của đô thị lớn, một sự cho phép ATC là cần thiết.


The private pilot who cruises without permission into this airspace risks losing their license.

Các phi công tư nhân thực hiện chuyến bay mà không có sự cho phép bay vào những không phận ngày có nguy cơ bị tước giấy phép.

The meaning and power of smell: Mùi hương có ý nghĩa gì trong cuộc sống của chúng ta?

 

Khứu giác của chúng ta rất mạnh mẽ.
The sense of smell, or olfaction, is powerful.

Mùi hương ảnh hưởng đến chúng ta ở mức độ vật lý, tâm lý và cả xã hội.
Odours affect us on a physical, psychological and social level.

Tuy nhiên đa số chúng ta đang hít các mùi hương bao quanh mà không hề nhận biết được tầm quan trọng của chúng.
For the most part, however, we breathe in the aromas which surround us without being consciously aware of their importance to us.

Và chỉ khi khả năng ngửi của chúng ta vì lý do nào đó bị suy yếu thì chúng ta mới bắt đầu nhận ra vai trò quan trọng của khứu giác.
It is only when the faculty of smell is impaired for some reason that we begin to realise the essential role the sense of smell plays in our sense of well-being.

A

Một cuộc khảo sát được tiến hành bởi Anthony Synott tại Đại học Concordia ở Montreal hỏi những người tham gia nhận xét về tầm quan trọng của mùi hương trong cuộc sống.
A survey conducted by Anthony Synott at Montreal’s Concordia University asked participants to comment on how important smell was to them in their lives.

Rõ ràng là mùi có thể gợi nên những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ.
It became apparent that smell can evoke strong emotional responses.

Một mùi hương kết hợp với một trải nghiệm tốt có thể mang lại cho chúng một niềm vui tức thời, trong khi một mùi hôi hay một mùi liên kết với một kí ức xấu có thể làm cho chúng ta nhăn mặt với vẻ ghê tởm.
A scent associated with a good experience can bring a rush of joy, while a foul odour or one associated with a bad memory may make us grimace with disgust.

Những người trả lời cuộc khảo sát trên cho biết khứu giác của họ thích hay không thích tuỳ thuộc vào sự liên tưởng về mặt cảm xúc.
Respondents to the survey noted that many of their olfactory likes and dislikes were based on emotional associations.

Các liên tưởng như vậy có thể đủ mạnh để những mùi mà chúng ta thường cho là khó chịu trở nên dễ chịu, và những mùi mà chúng ta thường cho là thơm trở nên khó chịu đối với từng cá nhân cụ thể.
Such associations can be powerful enough so that odours that we would generally label unpleasant become agreeable, and those that we would generally consider fragrant become disagreeable for particular individuals.

Do đó nhận thức về mùi không chỉ bao gồm những cảm giác của bản thân mùi đó mà còn bao gồm cả những trải nghiệm và cảm xúc liên kết với chúng.
The perception of smell, therefore, consists not only of the sensation of the odours themselves, but of the experiences and emotions associated with them.

B

Mùi cũng là dấu hiệu quan trọng trong liên kết xã hội.
Odours are also essential cues in social bonding.

Một người trả lời cuộc khảo sát tin rằng không có sự liên kết cảm xúc thật giữa ta với người ta yêu mà không cần chạm hay ngửi.
One respondent to the survey believed that there is no true emotional bonding without touching and smelling a loved one.

Trong thực tế, trẻ em nhận ra mùi của mẹ ngay sau khi sinh và người lớn thường có thể xác định con, vợ hoặc chồng của họ bằng mùi.
In fact, infants recognise the odours of their mothers soon after birth and adults can often identify their children or spouses by scent.

Trong một thử nghiệm nổi tiếng, phụ nữ và nam giới đã có thể phân biệt bởi mùi quần áo của chồng hay vợ mình từ những quần áo tương tự mặc bởi những người khác.
In one well-known test, women and men were able to distinguish by smell alone clothing worn by their marriage partners from similar clothing worn by other people.

Hầu hết các đối tượng tham gia có lẽ không bao giờ nghĩ là mùi có thể xem như một tín hiệu để xác định các thành viên trong gia đình mình trước khi được tham gia vào cuộc kiểm tra này, nhưng như các thí nghiệm cho thấy mùi có tác động đến việc xác định trên mặc dù họ không để ý tới.
Most of the subjects would probably never have given much thought to odour as a cue for identifying family members before being involved in the test, but as the experiment revealed, even when not consciously considered, smells register.


C

Mặc dù mùi đóng vai trò quan trọng đối với cuộc sống tình cảm và cảm giác của chúng ta nhưng có lẽ nó là giác quan bị đánh giá thấp nhất trong nhiều nền văn hóa.
In spite of its importance to our emotional and sensory lives, smell is probably the most undervalued sense in many cultures.

Lý do thường được đưa ra cho việc xem nhẹ này là khả năng khứu giác của con người rất yếu và chưa phát triển khi so với khả năng của các động vật khác.
The reason often given for the low regard in which smell is held is that, in comparison with its importance among animals, the human sense of smell is feeble and undeveloped.

Trong khi sự thật rằng năng lực khứu giác của con người không được tốt như các loài động vật khác thì khả năng khứu giác này vẫn còn khá nhạy.
While it is true that the olfactory powers of humans are nothing like as fine as those possessed by certain animals, they are still remarkably acute.

Mũi của chúng ta có thể nhận biết hàng ngàn mùi khác nhau, và có thể cảm nhận những mùi với số lượng cực kỳ nhỏ.
Our noses are able to recognise thousands of smells, and to perceive odours which are present only in extremely small quantities.

D

Tuy nhiên mùi là một hiện tượng rất khó nắm bắt.
Smell, however, is a highly elusive phenomenon.

Ví dụ, không giống như màu sắc, mùi có thể không có tên trong nhiều ngôn ngữ vì đơn giản là không có từ cụ thể nào chỉ điều này.
Odours, unlike colours, for instance, cannot be named in many languages because the specific vocabulary simply doesn’t exist.

Nó có mùi là blah blah blah - chúng ta phải nói thế khi mô tả 1 mùi nào đó theo trải nghiệm về khứu giác của chúng ta.
It smells like blah blah blah - we have to say when describing an odour, struggling to express our olfactory experience.

Hay chúng ta cũng không ghi chép được mùi vì không có cách nào hiệu quả để chụp hoặc lưu trữ chúng theo thời gian.
Nor can odours be recorded: there is no effective way to either capture or store them over time.

Trong lĩnh vực khứu giác, việc chúng ta phải làm gì là mô tả và ghi chép những gì đã nhớ.
In the realm of olfaction, we must make do with descriptions and recollections.

Điều này có ý nghĩa đối với các nghiên cứu khứu giác.
This has implications for olfactory research.

E

Hầu hết các nghiên cứu về mùi thực hiện cho đến nay có bản chất của khoa học vật lý.
Most of the research on smell undertaken to date has been of a physical scientific nature.

Những tiến bộ đáng kể đã được thực hiện trong sự hiểu biết về bản chất sinh học và hóa học của khứu giác, nhưng nhiều câu hỏi cơ bản vẫn chưa được trả lời.
Significant advances have been made in the understanding of the biological and chemical nature of olfaction, but many fundamental questions have yet to be answered.

Các nhà nghiên cứu vẫn còn băn khoăn xem khứu giác là một hay hai giác quan - một là phản ứng với mùi một cách thích hợp và hai là nhận biết các chất hoá học không mùi trong không khí.
Researchers have still to decide whether smell is one sense or two - one responding to odours proper and the other registering odourless chemicals in the air.

Các câu hỏi khác chưa được trả lời là liệu mũi có phải là phần duy nhất của cơ thể bị ảnh hưởng bởi mùi hay không, và làm thế nào mùi có thể được đo lường một cách khách quan dưới dạng các thành phần phi vật thể.
Other unanswered questions are whether the nose is the only part of the body affected by odours, and how smells can be measured objectively given the nonphysical components.

Những câu hỏi như thế này có thể hiểu là việc quan tâm trong lĩnh vực tâm lý về mùi chắc chắn sẽ đóng 1 vai trò ngày càng quan trọng đối với các nhà nghiên cứu.
Questions like these mean that interest in the psychology of smell is inevitably set to play an increasingly important role for researchers.

F

Tuy nhiên, mùi không chỉ đơn giản là một hiện tượng sinh học và tâm lý.
However, smell is not simply a biological and psychological phenomenon.

Mùi là văn hóa, do đó nó là một hiện tượng xã hội và lịch sử.
Smell is cultural, hence it is a social and historical phenomenon.

Mùi được xem như một giá trị văn hóa: có những mùi bị cho là công kích ở một số nền văn hóa lại được hoàn toàn chấp nhận được ở những nền văn hoá khác.
Odours are invested with cultural values: smells that are considered to be offensive in some cultures may be perfectly acceptable in others.

Do đó, ý thức của chúng ta về mùi chỉ là một phương tiện, và là mô hình tương tác với thế giới.
Therefore, our sense of smell is a means of, and model for, interacting with the world.

Các mùi khác nhau có thể cho chúng ta những trải nghiệm thân mật hay tình cảm và giá trị mà chúng ta có được đến từ những trải nghiệm này kết hợp chặt chẽ bởi các thành viên của xã hội trên phương diện cá nhân sâu sắc.
Different smells can provide us with intimate and emotionally charged experiences and the value that we attach to these experiences is interiorised by the members of society in a deeply personal way.

Quan trọng hơn là cảm xúc thông thường của chúng ta về mùi có thể giúp phân biệt chúng ta đến từ các nền văn hóa khác.
Importantly, our commonly held feelings about smells can help distinguish us from other cultures.

Do đó, các nghiên cứu về lịch sử văn hóa của mùi là một cảm giác rất thực tế, một cuộc điều tra bản chất của văn hóa nhân loại.
The study of the cultural history of smell is, therefore, in a very real sense, an investigation into the essence of human culture.

NGỌC THU

ARTCANDY SHOP NGỌC THU -     Trên   bước   đường   THÀNH   CÔNG , không   có   dấu   chân   của   những   kẻ   LƯỜI   BIẾNG . ...