Play is a serious business: Chơi là một công việc nghiêm túc


Does play help develop bigger, better brains? Bryant Furlow investigates.

Trò chơi có giúp phát triển trí não lớn hơn và tốt hơn? Bryant Furlow điều tra về vấn đề này.

A

Playing is a serious business.
Chơi là một công việc nghiêm túc.

Children engrossed in a make-believe world, fox cubs play-fighting or kittens teasing a ball of string aren’t just having fun.
Trẻ em mải mê trong thế giới thần kỳ, những con cáo con chơi trò đánh nhau hoặc mèo con vờn cuộn len không chỉ để giải trí.

Play may look like a carefree and exuberant way to pass the time before the hard work of adulthood comes along, but there’s much more to it than that.
Thoạt nhìn, chơi đùa có vẻ là một cách thảnh thơi, hồ hởi để tiêu tốn thời gian trước khi những công việc nặng nhọc của lứa tuổi trưởng thành xuất hiện, nhưng thật ra nó còn mang ý nghĩa nhiều hơn thế.

For a start, play can even cost animals their lives.
Đầu tiên, chơi đùa thậm chí có thể làm các loài vật bị mất mạng.

Eighty per cent of deaths among juvenile fur seals occur because playing pups fail to spot predators approaching.
Tám mươi phần trăm cái chết trong số các con hải cẩu vị thành niên xảy ra vì những hải cẩu con đang chơi không phát hiện được con thú ăn thịt đang đến gần.

It is also extremely expensive in terms of energy.
Nó cũng rất tốn kém về mặt năng lượng.

Playful young animals use around two or three per cent of their energy cavorting, and in children that figure can be closer to fifteen per cent.
Những động vật lúc nhỏ hay vui đùa sử dụng khoảng hai hoặc ba phần trăm năng lượng của chúng cho vui chơi, và ở trẻ em con số đó có thể là gần mười lăm phần trăm.

‘Even two or three per cent is huge,’ says John Byers of Idaho University.
John Byers của Đại học Idaho nói: "Ngay cả hai hay ba phần trăm là rất lớn.

‘You just don’t find animals wasting energy like that,’ he adds.
‘Bạn chỉ không nhận thấy động vật lãng phí năng lượng như vậy,’ ông cho biết thêm.

There must be a reason.
Phải có một lý do.

B

But if play is not simply a developmental hiccup, as biologists once thought, why did it evolve? The latest idea suggests that play has evolved to build big brains.
Nhưng nếu chơi đùa không đơn thuần chỉ là một sự gián đoạn trong quá trình phát triển, như cách giới sinh học đã từng nghĩ, thì tại sao nó lại tiến hóa? Ý kiến mới nhất cho rằng việc chơi đùa đã phát triển để tạo nên những bộ não lớn.

In other words, playing makes you intelligent.
Nói cách khác, việc chơi khiến bạn thông minh.

Playfulness, it seems, is common only among mammals, although a few of the larger-brained birds also indulge.
Tính vui đùa có vẻ như, chỉ phổ biến ở các động vật có vú, mặc dù một số loài chim lớn hơn cũng có thể có.

Animals at play often use unique signs - tail- wagging in dogs, for example - to indicate that activity superficially resembling adult behaviour is not really in earnest.
Động vật khi chơi thường sử dụng các dấu hiệu độc đáo - ví dụ như vẫy đuôi ở chó - để biểu thị hành động một cách hời hợt giống như hành vi người lớn không thực sự nghiêm túc.

A popular explanation of play has been that it helps juveniles develop the skills they will need to hunt, mate and socialise as adults.
Một cách giải thích phổ biến về sự vui chơi là nó đã giúp động vật vị thành niên phát triển các kỹ năng cần thiết để săn đuổi, kết đôi với nhau và giao tiếp như trưởng thành.

Another has been that it allows young animals to get in shape for adult life by improving their respiratory endurance.
Một điều khác nữa là nó cho phép các con vật nhỏ hình thành cuộc sống trưởng thành bằng cách cải thiện sức chịu đựng của hệ hô hấp của chúng.

Both these ideas have been questioned in recent years.
Cả hai ý tưởng này đều bị đặt nghi vấn trong vài năm trở lại đây.

C

Take the exercise theory.
Chúng ta hãy thử xem xét lý thuyết rèn luyện thể lực.

If play evolved to build muscle or as a kind of endurance training, then you would expect to see permanent benefits.
Nếu chơi đùa phát triển để hình thành cơ bắp hay như một dạng bài tập gia tăng sức bền thì chúng ta có thể mong đợi nhìn thấy những lợi ích vĩnh viễn.

But Byers points out that the benefits of increased exercise disappear rapidly after training stops, so any improvement in endurance resulting from juvenile play would be lost by adulthood.
Nhưng Byers chỉ ra rằng những lợi ích của việc tăng cường tập thể dục nhanh chóng biến mất sau khi ngừng luyện tập, do vậy bất kỳ cải thiện độ bền nào do vui chơi khi còn vị thành niên sẽ bị mất đi bởi tuổi trưởng thành.

‘If the function of play was to get into shape,’ says Byers, ‘the optimum time for playing would depend on when it was most advantageous for the young of a particular species to do so.
Byers cho biết: “Nếu chức năng của việc chơi đùa là hình thành vóc dáng thì thời điểm tối ưu cho điều này sẽ phụ thuộc vào giai đoạn mang lại lợi ích nhiều nhất cho con non ở một loài nhất định.

But it doesn’t work like that.
Nhưng nó không hoạt động như thế.

’ Across species, play tends to peak about halfway through the suckling stage and then decline.
"Ở các loài khác nhau, vui chơi có xu hướng đạt đến đỉnh điểm trong giai đoạn bú sữa và sau đó giảm xuống.

D

Then there’s the skills-training hypothesis.
Tiếp theo là giả thiết rèn luyện kỹ năng.

At first glance, playing animals do appear to be practising the complex manoeuvres they will need in adulthood.
Thoạt nhìn, động vật chơi đùa dường như đang thực hành các thao tác phức tạp mà chúng sẽ cần ở tuổi trưởng thành.

But a closer inspection reveals this interpretation as too simplistic.
Nhưng một cuộc kiểm tra gần đây cho thấy sự giải thích này quá đơn giản.

In one study, behavioural ecologist Tim Caro, from the University of California, looked at the predatory play of kittens and their predatory behaviour when they reached adulthood.
Trong một nghiên cứu, nhà sinh thái học về hành vi Tim Caro, từ Đại học California, đã xem xét việc chơi đùa của mèo con và hành vi ăn cắp của chúng khi chúng đến tuổi trưởng thành.

He found that the way the cats played had no significant effect on their hunting prowess in later life.
Ông phát hiện ra rằng cách mà những con mèo chơi không ảnh hưởng đáng kể đến khả năng săn mồi của chúng trong cuộc sống sau này.

E

Earlier this year, Sergio Pellis of Lethbridge University, Canada, reported that there is a strong positive link between brain size and playfulness among mammals in general.
Đầu năm nay, Sergio Pellis thuộc Đại học Lethbridge, Canada, cho biết có mối liên hệ chặt chẽ giữa kích cỡ não và đặc tính thích chơi đùa ở các loài động vật có vú.

Comparing measurements for fifteen orders of mammal, he and his team found larger brains (for a given body size) are linked to greater playfulness.
So sánh các kích thước cho mười lăm loài thú có vú, ông và nhóm của ông đã phát hiện não lớn hơn (cho một kích thước nhất định) có liên quan đến việc chơi đùa nhiều hơn.

The converse was also found to be true.
Điều ngược lại cũng được nhận thấy là đúng.

Robert Barton of Durham University believes that, because large brains are more sensitive to developmental stimuli than smaller brains, they require more play to help mould them for adulthood.
Robert Barton của Đại học Durham tin rằng, bởi vì bộ não lớn nhạy cảm với kích thích phát triển hơn so với não nhỏ hơn, chúng đòi hỏi phải có nhiều trò chơi hơn để giúp chúng hun đúc cho sự trưởng thành.

‘I concluded it’s to do with learning, and with the importance of environmental data to the brain during development,’ he says.
"Tôi kết luận rằng nó liên quan đến việc học, và với tầm quan trọng của dữ liệu môi trường tới não trong sự phát triển," ông nói.

F

According to Byers, the timing of the playful stage in young animals provides an important clue to what’s going on.
Theo Byers, sự tính toán thời gian của giai đoạn vui chơi trong động vật lúc nhỏ cung cấp một đầu mối quan trọng cho những gì đang xảy ra.

If you plot the amount of time a juvenile devotes to play each day over the course of its development, you discover a pattern typically associated with a ‘sensitive period’ - a brief development window during which the brain can actually be modified in ways that are not possible earlier or later in life.
Nếu bạn vẽ ra một khoảng thời gian mà một con vật vị thành niên cố gắng chơi mỗi ngày trong quá trình phát triển, bạn sẽ khám phá ra một khuôn mẫu liên quan đến 'giai đoạn nhạy cảm' - một cửa sổ phát triển ngắn trong đó não thực sự có thể được sửa đổi theo những cách không thể sớm hơn hoặc muộn hơn trong cuộc sống.

Think of the relative ease with which young children - but not infants or adults - absorb language.
Hãy suy nghĩ về sự dễ dàng tương đối mà động vật khi còn nhỏ - nhưng không phải là con vật sơ sinh hoặc trưởng thành - sẽ tiếp thu ngôn ngữ.

Other researchers have found that play in cats, rats and mice is at its most intense just as this ‘window of opportunity’ reaches its peak.
Các nhà nghiên cứu khác đã phát hiện ra rằng vui chơi ở mèo, chuột là cực kỳ mạnh mẽ khi "cửa sổ cơ hội" này đạt đến đỉnh điểm.

G

‘People have not paid enough attention to the amount of the brain activated by play,’ says Marc Bekoff from Colorado University.
Marc Bekoff, Đại học Colorado, cho biết: "Người ta chưa chú ý đến lượng bộ não được kích hoạt bằng cách chơi.

Bekoff studied coyote pups at play and found that the kind of behaviour involved was markedly more variable and unpredictable than that of adults.
Bekoff đã nghiên cứu những chú cún con đồng cỏ đang chơi đùa và nhận thấy rằng loại hành vi liên quan đó rõ ràng là thay đổi và không thể dự đoán được so với những con trưởng thành.

Such behaviour activates many different parts of the brain, he reasons.
Hành vi như vậy kích hoạt nhiều phần khác nhau của bộ não, ông lý luận.

Bekoff likens it to a behavioural kaleidoscope, with animals at play jumping rapidly between activities.
Bekoff ví nó với kính vạn họa về cách cư xử, trong đó loài vật chơi đùa và chuyển đổi liên tục giữa các hoạt động.

‘They use behaviour from a lot of different contexts - predation, aggression, reproduction,’ he says.
"Chúng dùng hành vi theo nhiều hoàn cảnh khác nhau - ăn thịt, tấn công, sinh sản," ông nói.

‘Their developing brain is getting all sorts of stimulation.
"Bộ não đang phát triển của chúng sẽ nhận được tất cả các kích thích.

H

Not only is more of the brain involved in play than was suspected, but it also seems to activate higher cognitive processes.
Không chỉ dùng nhiều não bộ hơn tham gia chơi hơn đã được nghi ngờ, nó dường như cũng kích hoạt các quá trình nhận thức cao hơn.

‘There’s enormous cognitive involvement in play,’ says Bekoff.
Bekoff nói: "Có rất nhiều sự liên quan về nhận thức trong trò chơi.

He points out that play often involves complex assessments of playmates, ideas of reciprocity and the use of specialised signals and rules.
Ông chỉ ra rằng chơi thường bao gồm những đánh giá phức tạp của bạn cùng chơi, những ý tưởng về sự tương hỗ và sử dụng các tín hiệu và quy tắc chuyên biệt.

He believes that play creates a brain that has greater behavioural flexibility and improved potential for learning later in life.
Ông tin rằng chơi tạo ra một bộ não có tính linh hoạt cao hơn và cải thiện khả năng học tập sau này trong cuộc sống.

The idea is backed up by the work of Stephen Siviy of Gettysburg College.
Ý tưởng này được hỗ trợ bởi công trình của Stephen Siviy của Trường Cao đẳng Gettysburg.

Siviy studied how bouts of play affected the brain’s levels of a particular chemical associated with the stimulation and growth of nerve cells.
Siviy đã nghiên cứu cách thức chơi như thế nào đã ảnh hưởng đến mức độ của một chất hóa học liên quan đến sự kích thích và tăng trưởng của các tế bào thần kinh.

He was surprised by the extent of the activation.
Ông đã rất ngạc nhiên bởi mức độ kích hoạt.

‘Play just lights everything up,’ he says.
"Chơi chỉ làm sáng mọi thứ", ông nói.

By allowing link-ups between brain areas that might not normally communicate with each other, play may enhance creativity.
Bằng cách cho phép liên kết giữa các vùng não không thông thường liên lạc với nhau, trò chơi có thể tăng cường sự sáng tạo.

I

What might further experimentation suggest about the way children are raised in many societies today? We already know that rat pups denied the chance to play grow smaller brain components and fail to develop the ability to apply social rules when they interact with their peers.
Cuộc thử nghiệm xa hơn có thể gợi ý điều gì về cách thức nuôi dạy trẻ em ngày nay ở nhiều xã hội khác nhau? Chúng ta đã biết rằng những con chuột con nào từ chối cơ hội chơi đùa sẽ có thành phần não bộ nhỏ hơn và không phát triển khả năng áp dụng quy tắc xã hội khi tương tác với đồng loại.

With schooling beginning earlier and becoming increasingly exam-orientated, play is likely to get even less of a look-in.
Với việc bắt đầu đi học sớm hơn và định hướng thi cử ngày càng tăng, chơi có vẻ sẽ ít được chú ý hơn.

Who knows what the result of that will be?.
Ai biết kết quả của tình trạng này sẽ là gì?.
 
 

Solution for: Micro-Enterprise Credit for Street Youth: Chương trình tín dụng tạo cơ hội thành lập doanh nghiệp quy mô nhỏ dành cho thanh niên đường phố

 


"I am from a large, poor family and for many years we have done without breakfast.
“Em đến từ một gia đình đông con nghèo khó và chúng em đã phải nhịn ăn sáng nhiều năm lắm rồi.

Ever since I joined the Street Kids International program I have been able to buy my family sugar and buns for breakfast.
” Kể từ khi em tham gia chương trình Trẻ em đường phố quốc tế, em đã có thể mua đường và bánh cho gia đình để làm bữa sáng.

I have also bought myself decent second-hand clothes and shoes.
Em cũng có đủ tiền để mua những bộ quần áo đã qua sử dụng và giày dép đàng hoàng.

” – Doreen Soko.

“We’ve had business experience.
“Chúng em đã có những trải nghiệm kinh doanh.

Now I'm confident to expand what we've been doing.
Giờ em cảm thấy đủ tự tin để mở rộng lĩnh vực mà chúng em đang thực hiện.

I've learnt cash management, and the way of keeping money so we save for re-investment.
Em đã được học về quản lý tiền mặt cũng như cách để chúng em tiết kiệm tiền bạc nhằm thực hiện tái đầu tư.

Now business is a part of our lives.
Bây giờ kinh doanh là một phần trong cuộc sống của chúng em.

As well, we didn't know each other before - now we've made new friends” – Fan Kaoma.
Mặt khác, chúng em cũng chưa từng quen biết nhau từ trước – giờ thì chúng em đã làm quen được với nhiều bạn mới” – Fan Kaoma.

Participants in the Youth Skills Enterprise Initiative Program, Zambia.
Những người tham gia chương trình Sáng kiến ​​Doanh nghiệp Kỹ năng Thanh niên ở Zambia.

Introduction

Although small-scale business training and credit programs have become more common throughout the world, relatively little attention has been paid to the need to direct such opportunities to young people.
Mặc dù các chương trình đào tạo kinh doanh quy mô nhỏ cùng với các chương trình tín dụng đang ngày càng trở nên phổ biến hơn trên toàn thế giới, có tương đối ít người quan tâm đến nhu cầu định hướng những cơ hội như thế cho giới trẻ.

Even less attention has been paid to children living on the street or in difficult circumstances.
Thậm chí sự quan tâm dành cho những trẻ em sống lang thang đầu đường xó chợ hoặc những trẻ phải đương đầu với nghịch cảnh lại càng ít hơn.

Over the past nine years, Street Kids International (SKI) has been working with partner organisations in Africa, Latin America and India to support the economic lives of street children.
Trong suốt 9 năm qua, chương trình Trẻ em đường phố quốc tế (SKI) đã hợp tác cũng với các tổ chức ở Châu Phi, Châu Mỹ Latinh và Ấn Độ để hỗ trợ về mặt kinh tế cho trẻ em đường phố.

The purpose of this paper is to share some of the lessons SKI and our partners have learned.
Mục đích của bài báo này là nhằm chia sẻ những kinh nghiệm mà SKI và những đối tác của chúng tôi đã rút ra được.

Background

Typically, children do not end up on the streets due to a single cause, but to a combination of factors: a dearth of adequately funded schools, the demand for income at home, family breakdown and violence.
Thông thường, có nhiều yếu tố khác nhau, chứ không phải một nguyên do duy nhất, dẫn đến trẻ phải sống ngoài đường như: sự thiếu thốn các trường học được đầu tư vốn đầy đủ, áp lực thu nhập từ gia đình, vấn nạn bạo lực cũng như tình trạng đổ vỡ của gia đình.

The street may be attractive to children as a place to find adventurous play and money.
Đường phố dường như trở nên hấp dẫn trong mắt trẻ nhỏ như là một nơi để tìm kiếm trò chơi mạo hiểm và tiền.

However, It is also a place where some children are exposed, with little or no protection, to exploitative employment, urban crime, and abuse.
Tuy nhiên, đây cũng là nơi mà trẻ em dễ tiếp xúc với vấn nạn bóc lột sức lao động, tội phạm đô thị cũng như thói hư tật xấu mà lại có rất ít hoặc không có bất kì sự bảo vệ nào.

Children who work on the streets are generally involved in unskilled, labour-intensive tasks which require long hours, such as shining shoes, carrying goods, guarding orwashing cars, and informal trading.
Trẻ em làm việc trên đường phố thường dính líu đến những công việc chân tay nặng nhọc tốn hàng giờ để hoàn thành và không đòi hỏi tay nghề cao như đánh giày, bốc xếp, trông giữ hoặc rửa xe cũng như tham gia vào các giao dịch bất hợp pháp.

Some may also earn income through begging, or through theft and other illegal activities.
Một số trẻ em còn kiếm thu nhập bằng cách xin xỏ, nặng hơn thì trộm cắp hoặc thông qua những hành vi phạm pháp khác.

At the same time, there are street children who take pride In supporting themselves and their families and who often enjoy their work.
Cùng thời điểm đó, cũng có những đứa trẻ đường phố tự hào rằng mình có đủ khả năng để tự lo cho bản thân cũng như gia đình và chúng thường yêu thích công việc của mình.

Many children may choose entrepreneurship because it allows them a degree of independence, is less exploitative than many forms of paid employment, and is flexible enough to allow them to participate in other activities such as education and domestic tasks.
Nhiều trẻ em có thể lựa chọn kinh doanh vì loại hình này cho phép chúng có được sự tự do, ít bị lạm dụng sức lao động như các hình thức lao động có trả lương khác và đủ linh hoạt để chúng có thể tham gia vào những hoạt động khác như học tập và làm việc nhà.

Street Business Partnerships SKI has worked with partner organisations in Latin America, Africa and India to develop innovative opportunities for street children to earn income.
Các tổ chức cộng tác trong chương trình kinh doanh đường phố SKI đã làm việc với các tổ chức đối tác ở Châu Mỹ Latinh, Châu Phi và Ấn Độ để phát triển cơ hội đổi mới cho trẻ em đường phố trong việc kiếm thêm thu nhập.

Street Business Partnerships

• The SKI Bicycle Courier Service first started in the Sudan.
• Dịch vụ đưa thư bằng xe đạp của SKI được đưa vào sử dụng lần đầu tại Sudan.

Participants in this enterprise were supplied with bicycles, which they used to deliver parcels and messages, and which they were required to pay for gradually from their wages.
Những người tham gia doanh nghiệp này sẽ được cấp xe đạp, thứ phương tiện được họ sử dụng để vận chuyển các kiện hàng và thư tín, và cũng là thứ mà họ được yêu cầu chi trả bằng cách khấu trừ dần vào lương của mình.

A similar program was taken up in Bangalore, India.
Một chương trình tương tự đã được thực hiện ở Bangalore, Ấn Độ.

• Another successful project, The Shoe Shine Collective, was a partnership program with the YWCA in the Dominican Republic.
• Một dự án thành công khác mang tên Tập thể đánh giày, đây là một chương trình hợp tác với YWCA ở Cộng hòa Dominica.

In this project, participants were lent money to purchase shoe shine boxes.
Trong dự án này, những người tham gia sẽ được cấp tiền để mua các hộp dụng cụ đánh giày.

They were also given a safe place to store their equipment, and facilities for individual savings plans.
Họ cũng được cung cấp một nơi an toàn để lưu trữ đồ nghề cũng như những tiện nghi dành cho các kế hoạch tiết kiệm cá nhân.

• The Youth Skills Enterprise Initiative in Zambia is a joint program with the Red Cross Society and the YWCA.
• Chương trình Sáng kiến doanh nghiệp Kỹ năng thanh niên tại Zambia là một chương trình kết hợp với Hội Chữ Thập Đỏ và YWCA.

Street youths are supported to start their own small business through business training, life skills training and access to credit.
Thanh niên đường phố sẽ được hỗ trợ khởi nghiệp thông qua các khóa đào tạo kinh doanh, rèn luyện kỹ năng sống và được tiếp cận với các chương trình tín dụng.

Lessons learned

The following lessons have emerged from the programs that SKI.
Các bài học kinh nghiệm sau đây được rút ra từ những chương trình mà SKI.

and partner organisations have created.
Và các tổ chức đối tác đã xây dựng.

• Being an entrepreneur is not for everyone, nor for every street child.
• Không phải ai cũng có thể làm doanh nhân, những đứa trẻ đường phố cũng thế.

Ideally, potential participants will have been involved in the organisation's programs for at least six months, and trust and relationship building will have already been established.
Tình huống lý tưởng nhất là những người tham gia sẽ hoạt động trong các chương trình của tổ chức trong một khoảng thời gian ít nhất là 6 tháng, từ đó hình thành nền tảng cho các mối quan hệ cũng như xây dựng sự tín nhiệm.

• The involvement of the participants has been essential to the development of relevant programs.
• Hoạt động của những người tham gia là rất cần thiết nhằm phục vụ cho công cuộc phát triển các chương trình có liên quan.

When children have had a major role in determining procedures, they are more likely to abide by and enforce them.
Khi trẻ em giữ một vai trò quan trọng trong việc hoạch định thủ tục, chúng sẽ tự giác tôn trọng và tuân thủ những quy trình đó hơn.

• It is critical for all loans to be linked to training programs that include the development of basic business and life skills.
• Điều quan trọng là tất cả các khoản vay chi trả nên được liên kết với các chương trình đào tạo bao gồm chương trình phát triển kỹ năng kinh doanh cơ bản và kỹ năng sống.

• There are tremendous advantages to involving parents or guardians in the program, where such relationships exist.
• Sẽ có nhiều lợi ích to lớn khi cha mẹ hoặc người giám hộ cũng có thể tham gia chương trình nơi mà những mối quan hệ như vậy tồn tại.

Home visits allow staff the opportunity to know where the participants live, and to understand more about each individual’s situation.
Các chuyến ghé thăm tận nhà tạo cơ hội cho nhân viên tìm hiểu về nơi ở của những người tham gia, cũng như hiểu rõ hơn về hoàn cảnh thực tế của mỗi cá nhân.

• Small loans are provided initially for purchasing fixed assets such as bicycles, shoe shine kits and basic building materials for a market stall.
• Đầu tiên, các khoản vay nhỏ sẽ được cung cấp để chi trả cho các tài sản cố định, ví dụ như xe đạp, bộ đánh giày cũng như là các nguyên liệu cơ bản để dựng lên quầy hàng.

As the entrepreneurs gain experience, the enterprises can be gradually expanded and consideration can be given to increasing loan amounts.
Khi các doanh nhân ngày càng có nhiều kinh nghiệm hơn, các doanh nghiệp sẽ dần mở rộng qui mô và có thể được xem xét cấp các khoản vay lớn hơn.

The loan amounts in SKI programs have generally ranged from US$30-$100.
Các khoản cho vay thuộc phạm vi chương trình SKI thường dao động từ 30 đến 100 đô la Mỹ.

• All SKI programs have charged interest on the loans, primarily to get the entrepreneurs used to the concept of paying interest on borrowed money.
• Tất cả các chương trình SKI đều tính lãi trên các khoản cho vay nhằm giúp cho các doanh nhân nhận thức được quá trình trả lãi cho các khoản vay.

Generally the rates have been modest (lower than bank rates).
Lãi suất nhìn chung đều khá thấp (thấp hơn lãi suất ngân hàng).

Conclusion

There is a need to recognise the importance of access to credit for impoverished young people seeking to fulfill economic needs.
Sự nhận thức về tầm quan trọng của quá trình tiếp cận với các chương trình tín dụng dành cho những thanh niên nghèo có mong muốn đáp ứng nhu cầu chi tiêu là rất cần thiết.

The provision of small loans to support the entrepreneurial dreams and ambitions of youth can be an effective means to help them change their lives.
Việc cung cấp những khoản vay nhỏ nhằm chắp cánh cho giấc mơ kinh doanh và tham vọng tuổi trẻ là một biện pháp hiệu quả giúp cho những thanh niên này có cơ hội đổi đời.

However, we believe that credit must be extended in association with other types of support that help participants develop critical life skills as well as productive businesses.
Mặc dù vậy, chúng tôi tin rằng các chương trình tín dụng nên được mở rộng và kết hợp cùng với các hình thức hỗ trợ khác, hướng đến mục đích là giúp đỡ những người tham gia có thể phát triển các kỹ năng sống cơ bản cũng như tạo cơ hội làm ăn một cách hiệu quả.

Visual Symbols and the Blind: Các biểu tượng trực quan cho người mù


 A


From a number of recent studies, it has become clear that blind people can appreciate the use of outlines and perspectives to describe the arrangement of objects and other surfaces in space.
Từ một số nghiên cứu gần đây, rõ ràng là người mù có thể đánh giá cao việc sử dụng các bản phác thảo và hình phối cảnh để mô tả sự sắp đặt của các vật thể và các bề mặt khác trong không gian.

But pictures are more than literal representations.
Nhưng những bức tranh đó không chỉ là sự đại diện đơn thuần.

This fact was drawn to my attention dramatically when a blind woman in one of my investigations decided on her own initiative to draw a wheel as it was spinning.
Thực tế này đã thu hút sự chú ý của tôi rất nhiều, khi một người phụ nữ mù trong một trong những cuộc điều tra của tôi, đã quyết định tự mình vẽ một chiếc bánh xe khi nó đang quay.

To show this motion, she traced a curve inside the circle.
Để mô tả chuyển động này, cô ấy đã vạch một đường cong bên trong một vòng tròn.

I was taken aback.
Tôi đã lấy làm ngạc nhiên.

Lines of motion, such as the one she used, are a very recent invention in the history of illustration.
Các đường chuyển động, ví dụ như đường cong cô ấy đã dùng, là một phát minh rất gần đây trong lịch sử hội họa.

Indeed, as art scholar David Kunzle notes, Wilhelm Busch, a trend-setting nineteenth-century cartoonist, used virtually no motion lines in his popular figures until about 1877.
Thật vậy, như học giả nghệ thuật David Kunzle ghi lại, một họa sỹ trường phái tranh biếm họa vào thế kỷ mười chín, gần như đã không dùng các đường chuyển động trong các bức tranh nổi tiếng của mình cho đến tầm năm 1877.

B

When I asked several other blind study subjects to draw a spinning wheel, one particularly clever rendition appeared repeatedly: several subjects showed the wheel's spokes as curved lines.
Khi tôi hỏi một số đối tượng nghiên cứu bị mù khác vẽ một bánh xe đang quay, một kết quả đặc biệt tài tình lặp lại liên tục: một vài đối tượng vẽ căm bánh xe như những đường cong.

When asked about these curves, they all described them as metaphorical ways of suggesting motion.
Khi được hỏi về những đường cong này, tất cả bọn họ đều mô tả chúng là cách thể hiện ẩn dụ để ám chỉ chuyển động.

Majority rule would argue that this device somehow indicated motion very well.
Nguyên tắc đa số thì cho rằng cách làm này bằng cách nào đó chỉ ra chuyện động rất tốt.

But was it a better indicator than, say, broken or wavy lines - or any other kind of line, for that matter? The answer was not clear.
Nhưng liệu đó có phải là một cách thể hiện tốt hơn đường đứt đoạn hay đường lượn sóng, hay bất kỳ các đường nào khác cho vấn đề đó? Câu trả lời vẫn chưa rõ ràng.

So I decided to test whether various lines of motion were apt ways of showing movement or if they were merely idiosyncratic marks.
Vì vậy tôi đã quyết định kiểm tra liệu các đường nét chuyển động khác nhau có phù hợp để thể hiện sự di chuyển hay không hay chỉ đơn thuần là những dấu hiệu riêng.

Moreover, I wanted to discover whether there were differences in how the blind and the sighted interpreted lines of motion.
Thêm vào đó, tôi đã muốn khám phá xem liệu có sự khác biệt về việc giải thích các đường chuyển động giữa người không nhìn được và người nhìn được.

C

To search out these answers, I created raised-line drawings of five different wheels, depicting spokes with lines that curved, bent, waved, dashed and extended beyond the perimeter of the wheel.
Để tìm ra những câu trả lời này, tôi đã tạo ra các bản vẽ nâng cao của năm bánh xe khác nhau, miêu tả các căm xe với những đường cong, vòng, lượn sóng, đứt đoạn và đường nối bên ngoài chu vi bánh xe.

I then asked eighteen blind volunteers to feel the wheels and assign one of the following motions to each wheel: wobbling, spinning fast, spinning steadily, jerking orbraking.
Sau đó tôi đã yêu cầu 18 người tình nguyện bị mù cảm nhận các bánh xe và gán một trong các chuyển động sau cho mỗi bánh xe: lắc lắc, quay nhanh, quay đều, giật mạnh và hãm lại.

My control group consisted of eighteen sighted undergraduates from the University of Toronto.
Nhóm đối chứng của tôi bao gồm 18 sinh viên có thị lực bình thường ở đại học Toronto.

D

All but one of the blind subjects assigned distinctive motions to each wheel.
Ngoại trừ một trường hợp, tất cả đối tượng mù còn lại đều gắn những chuyển động khác nhau cho từng bánh xe.

Most guessed that the curved spokes indicated that the wheel was spinning steadily; the wavy spokes, they thought, suggested that the wheel was wobbling; and the bent spokes were taken as a sign that the wheel was jerking.
Đa phần đoán rằng đường cong mô tả bánh xe quay đều; đường lượn sóng cho thấy bánh xe đang chao đảo; và đường bị bẻ gập là dấu hiệu của bánh xe đang xóc nảy.

Subjects assumed that spokes extending beyond the wheel's perimeter signified that the wheel had its brakes on and that dashed spokes indicated the wheel was spinning quickly.
Các đối tượng nhận định rằng đường nằm ngoài viền bánh xe cho thấy bánh xe đã bị thắng lại và đường đứt khúc có nghĩa là bánh xe đang quay nhanh.

E

In addition, the favoured description for the sighted was the favoured description for the blind in every instance.
Thêm vào đó, trong mỗi trường hợp thì sự mô tả ưa thích của đối tượng sáng mắt chính là sự mô tả ưa thích của đối tượng mù.

What is more, the consensus among the sighted was barely higher than that among the blind.
Hơn nữa, sự thống nhất giữa những người nhìn thấy chỉ hơi cao hơn một chút so với giữa những người khiếm thị.

Because motion devices are unfamiliar to the blind, the task I gave them involved some problem solving.
Bởi vì các thiết bị chuyển động không quen thuộc với người mù, nên nhiệm vụ tôi đã đưa cho họ cũng có cả cách giải quyết.

Evidently, however, the blind not only figured out meanings for each line of motion, but as a group they generally came up with the same meaning at least as frequently as did sighted subjects.
Tuy nhiên, rõ ràng là, người mù không chỉ tìm ra ý nghĩa của mỗi đường chuyển động, mà như một nhóm, họ thường đưa ra ít nhất chung một ý nghĩa giống với những người nhìn được.

Part A

A

We have found that the blind understand other kinds of visual metaphors as well.
Chúng tôi đã phát hiện ra rằng người mù cũng hiểu các loại ẩn dụ cảm quan khác.

One blind woman drew a picture of a child inside a heart - choosing that symbol, she said, to show that love surrounded the child.
Một người phụ nữ mù đã vẽ 1 bức tranh của một đứa trẻ bên trong một trái tim – cô nói rằng cô chọn biểu tượng đó để thể hiện tình yêu bao quanh đứa trẻ.

With Chang Hong Liu, a doctoral student from China, I have begun exploring how well blind people understand the symbolism behind shapes such as hearts that do not directly represent their meaning.
Với Chang Hong Liu, một nghiên cứu sinh từ Trung Quốc, tôi đã bắt đầu khám phá ra những người khiếm thị hiểu tốt như thế nào sự biểu tượng hóa đằng sau những hình dạng, như các trái tim thì thường không diễn tả trực tiếp ý nghĩa của chúng.

B

We gave a list of twenty pairs of words to sighted subjects and asked them to pick from each pair the term that best related to a circle and the term that best related to a square.
Chúng tôi đã đưa một danh sách 20 cặp từ cho các đối tượng nhìn được và đề nghị họ chọn một cặp thuật ngữ liên quan nhất đến vòng tròn và thuật ngữ liên quan nhất đến hình vuông.

C

For example, we asked: What goes with soft? A circle or a square? Which shape goes with hard? All our subjects deemed the circle soft and the square hard.
Ví dụ, chúng tôi hỏi: Cái gì mềm? một hình tròn hay một hình vuông? Hình nào cứng? Tất cả các đối tượng của chúng tôi cho rằng hình tròn thì mềm và hình vuông thì cứng.

A full 94% ascribed happy to the circle, instead of sad.
94% đối tượng đã gán hạnh phúc vào hình tròn, thay vì nỗi buồn.

But other pairs revealed less agreement: 79% matched fast to slow and weak to strong, respectively.
Nhưng những cặp khác thì lại cho thấy ít sự thống nhất hơn: 79% đã nối nhanh với chậm, tiếp đến là yếu với khỏe.

And only 51% linked deep to circle and shallow to square.
Và chỉ có 51% liên kết độ sâu với hình tròn và độ nong với hình vuông.

When we tested four totally blind volunteers using the same list, we found that their choices closely resembled those made by the sighted subjects.
Khi chúng tôi kiểm tra tổng cộng bốn người tình nguyện bị khiếm thị sử dụng cùng một danh sách, chúng tôi thấy rằng những sự lựa chọn của họ gần giống với kết quả thực hiện bởi những người sáng mắt.

One man, who had been blind since birth, scored extremely well.
Một người đàn ông bị mù bẩm sinh đã lựa chọn cực kỳ tốt.

He made only one match differing from the consensus, assigning 'far' to square and 'near' to circle.
Ông ấy chỉ có một cặp là khác với những người khác, đó là gán ‘xa’ với hình vuông và ‘gần’ với hình tròn.

In fact, only a small majority of sighted subjects - 53% - had paired far and near to the opposite partners.
Thực ra, chỉ hơi quá nửa số đối tượng người nhìn được đã ghép xa và gần vào các vị trí ngược lại.

Thus, we concluded that the blind interpret abstract shapes as sighted people do.
Do đó, chúng tôi đã kết luận rằng, người khiếm thị giải thích các hình trừu tượng cũng giống như những người nhìn thấy làm.
 

What Do Whales Feel?: Các giác quan của cá heo

 

Một cuộc kiểm tra về chức năng của các giác quan ở các động vật biển có vú, tức các nhóm động vật có vú bao gồm cá voi, cá heo và loài cá heo chuột.
An examination of the functioning of the senses in cetaceans, the group of mammals comprising whales, dolphins and porpoises.

A

Một số các giác quan của chúng ta và động vật có vú trên cạn khác được xem là đương nhiên bị tiêu biến hay giảm tính năng ở các loài động vật có vú ở biển hoặc không thể hoạt động tốt trong nước.


Some of the senses that we and other terrestrial mammals take for granted are either reduced or absent in cetaceans or fail to function well in water.


Ví dụ, dường như từ cấu trúc não mà các loài có răng không thể ngửi thấy mùi.
For example, it appears from their brain structure that toothed species are unable to smell.

Mặc khác, các loài có sừng hàm có vẻ như có một số cấu trúc não bộ liên quan nhưng người ta không được liệu chúng có hoạt động hay không.
Baleen species, on the other hand, appear to have some related brain structures but it is not known whether these are functional.

Người ta chỉ suy đoán rằng khi các lỗ phun nước của cá voi tiến hoá và di chuyển lên đến đỉnh đầu thì những dây thần kinh phục vụ khứu giác có thể bị hy sinh gần như tất cả.
It has been speculated that, as the blowholes evolved and migrated to the top of the head, the neural pathways serving sense of smell may have been nearly all sacrificed.

Tương tự như vậy, mặc dù ít nhất một số loài thú biển có vị giác nhưng các dây thần kinh phục vụ việc này đã bị thoái hóa hay rất thô sơ.
Similarly, although at least some cetaceans have taste buds, the nerves serving these have degenerated or are rudimentary.

Xúc giác đôi khi cũng quá yếu, nhưng quan điểm này có lẽ là sai lầm.

B

The sense of touch has sometimes been described as weak too, but this view is probably mistaken.


Các huấn luyện viên cá heo và cá voi nhỏ bị nhốt thường nhận xét về phản ứng của các loài này khi bị chạm vào hoặc cọ xát, và cả hai loài động vú có vú ở biển bị giam cầm và thả tự do này (đặc biệt là cá lớn trưởng thành và cá con, hay thành viên của các nhóm giống nhau) có vẻ liên lạc thường xuyên với nhau.
Trainers of captive dolphins and small whales often remark on their animals’ responsiveness to being touched or rubbed, and both captive and free- ranging cetacean individuals of all species (particularly adults and calves, or members of the same subgroup) appear to make frequent contact.

Mối liên hệ này có thể giúp duy trì trật tự trong một nhóm, và động tác vuốt ve là một phần của nghi thức tán tỉnh trong hầu hết các loài.
This contact may help to maintain order within a group, and stroking or touching are part of the courtship ritual in most species.

Khu vực xung quanh lỗ phun nước cũng đặc biệt nhạy cảm và động vật nuôi nhốt thường phản ứng mạnh mẽ nếu bị chạm vào chỗ đó.
The area around the blowhole is also particularly sensitive and captive animals often object strongly to being touched there.

Thị giác cũng được phát triển ở các mức độ khác nhau ở các loài khác nhau.

C

The sense of vision is developed to different degrees in different species.


Các loài có sừng hàm được nghiên cứu ở khu dưới nước được siết chặt - đặc biệt là một con con cá voi con màu xám bị giam cầm trong một năm, và các cá voi và cá voi lưng gù thả tự do khác nhau được nghiên cứu và quay film lại ở Argentina và Hawaii - rõ ràng có thể theo dõi các đối tượng dưới nước, và chúng dường như có thể nhìn thấy tương đối tốt cả trong nước lẫn trên mặt nước.
Baleen species studied at close quarters underwater - specifically a grey whale calf in captivity for a year, and free-ranging right whales and humpback whales studied and filmed off Argentina and Hawaii - have obviously tracked objects with vision underwater, and they can apparently see moderately well both in water and in air.

Tuy nhiên, vị trí mắt quá hạn chế tầm nhìn ở cá voi tấm sừng hàm nên chúng có lẽ không có cái nhìn nổi 3D như chúng ta được.
However, the position of the eyes so restricts the field of vision in baleen whales that they probably do not have stereoscopic vision.

Mặt khác, vị trí mắt trong hầu hết cá heo cho thấy rằng chúng có tầm nhìn lập thể (nổi) về phía trước và đi xuống.


D

On the other hand, the position of the eyes in most dolphins and porpoises suggests that they have stereoscopic vision forward and downward.


Vị trí mắt của cá heo nước ngọt khi chúng thường bơi nghiêng hay lộn ngược trong khi cho con bú, cho thấy rằng những gì chúng nhìn được là hình nổi về phía trước và lên trên.
Eye position in freshwater dolphins, which often swim on their side or upside down while feeding, suggests that what vision they have is stereoscopic forward and upward.

Bằng cách so sánh, loài cá heo mũi cổ chai có tầm nhìn cực kỳ tốt trong nước.
By comparison, the bottlenose dolphin has extremely keen vision in water.

Đánh giá từ cách chúng quan sát và theo dõi loài cá bay trong không khí (cá chuồn), nó dường như cũng có thể thấy khá tốt khi nhìn qua nước.
Judging from the way it watches and tracks airborne flying fish, it can apparently see fairly well through the air-water interface as well.

Và mặc dù bằng các chứng thực nghiệm sơ bộ cho thấy rằng tầm nhìn trong không khí của chúng khá kém thì độ chính xác mà cá heo nhảy lên cao để bắt con cá nhỏ khỏi tay của một huấn luyện viên cung cấp bằng chứng ngược lại.
And although preliminary experimental evidence suggests that their in-air vision is poor, the accuracy with which dolphins leap high to take small fish out of a trainer’s hand provides anecdotal evidence to the contrary.

Biến đổi như vậy có thể được giải thích rõ ràng về các môi trường sống mà trong đó các loài cá đã phát triển.

E

Such variation can no doubt be explained with reference to the habitats in which individual species have developed.


Ví dụ, tầm nhìn rõ ràng là hữu ích hơn đối với các loài sống ở vùng biển mở hơn những loài sống ở các sông đục và vùng đồng bằng bị ngập lụt.
For example, vision is obviously more useful to species inhabiting clear open waters than to those living in turbid rivers and flooded plains.

Các loài boutu ở Nam Mỹ và Beiji Trung Quốc chẳng hạn, dường như có tầm nhìn rất hạn chế, và loài susus ở Ấn Độ thì bị mù, mắt của chúng bị tiêu giảm xuống thành các khe mà có lẽ chỉ cho phép chúng cảm nhận được hướng và cường độ của ánh sáng.
The South American boutu and Chinese beiji, for instanceappear to have very limited vision, and the Indian susus are blind, their eyes reduced to slits that probably allow them to sense only the direction and intensity of light.

Mặc dù các giác quan vị giác dường như bị xuống cấp, và tầm nhìn trong nước dường như không chắc chắn nhưng các điểm yếu như vậy được bù lại bằng cảm giác âm thanh được phát triển khá tốt ở động vật biển có vú.

F

Although the senses of taste and smell appear to have deteriorated, and vision in water appears to be uncertain, such weaknesses are more than compensated for by cetaceans’ well-developed acoustic sense.


Hầu hết các loài này được đánh giá có chất giọng cao, mặc dù chúng thay đổi khác nhau trong loạt các âm thanh mà chúng tạo ra, và nhiều loài đi tìm mòi bằng cách sử dụng định vị bằng tiếng vang.
Most species are highly vocal, although they vary in the range of sounds they produce, and many forage for food using echolocation.

Các loài cá voi tấm sừng lớn chủ yếu sử dụng các tần số thấp hơn và thường được giới hạn trong tiết mục của chúng.
Large baleen whales primarily use the lower frequencies and are often limited in their repertoire.

Trường hợp ngoại lệ đáng chú ý là các bài hát hợp xướng gần giống như bài hát của các cá voi đầu cong trong mùa hè và lời hát vang vảng phức tạp của những con cá voi lưng gù.
Notable exceptions are the nearly song-like choruses of bowhead whales in summer and the complex, haunting utterances of the humpback whales.

Các loài có răng nói chung sử dụng nhiều phổ tần số hơn, và tạo ra một đa dạng hơn về âm thanh hơn so với các loài sừng hàm (mặc dù những con cá voi nhà táng dường như tạo ra một loạt các điệu nhảy đơn điệu có năng lượng cao và các thứ khác).
Toothed species in general employ more of the frequency spectrum, and produce a wider variety of sounds, than baleen species (though the sperm whale apparently produces a monotonous series of high-energy clicks and little else).

Một số trong những âm thanh phức tạp trên rõ ràng là để giao tiếp, mặc dù vai trò của chúng trong đời sống xã hội và "văn hóa" của các loài thú biển được xem là có mục đích nghiên cứu hoang dã hơn là nghiên cứu khoa học vững chắc.
Some of the more complicated sounds are clearly communicative, although what role they may play in the social life and ‘culture’ of cetaceans has been more the subject of wild speculation than of solid science.

The Problem of Scarce Resources: Các vấn đề về khan hiếm nguồn lực

 


Section A

The problem of how health-care resources should be allocated or apportioned, so that they are distributed in both, the most just and most efficient way, is not a new one.
Vấn đề về các nguồn lực chăm sóc sức khoẻ nên được phân bổ hay phân chia như thế nào, để chúng được phân phối vừa đúng đắn nhất vừa hiệu quả nhất không phải là một thứ gì mới.

Every health system in an economically developed society is faced with the need to decide (either formally or informally) what proportion of the community’s total resources should be spent on health-care; how resources are to be apportioned; what diseases and disabilities and which forms of treatment are to be given priority; which members of the community are to be given special consideration in respect of their health needs; and which forms of treatment are the most cost-effective.
Mọi hệ thống y tế trong một xã hội phát triển về mặt kinh tế đều phải đối mặt với yêu cầu quyết định (hoặc chính thức hoặc không chính thức) bao nhiêu phần trong tổng nguồn lực của cộng đồng cần được chi cho chăm sóc sức khoẻ; Các nguồn lực được phân bổ như thế nào; Những bệnh tật và khuyết tật nào và những hình thức điều trị nào được ưu tiên; Những thành viên nào trong cộng đồng phải được xem xét đặc biệt về các nhu cầu sức khoẻ của họ; Và các hình thức điều trị nào là hiệu quả nhất về chi phí.

Section B

What is new is that, from the 1950s onwards, there have been certain general changes in outlook about the finitude of resources as a whole and of health-care resources in particular, as well as more specific changes regarding the clientele of health-care resources and the cost to the community of those resources.
Điều mới là từ những năm 1950 trở lại đây, đã có những thay đổi cơ bản trong triển vọng về hạn chế trong nguồn lực nói chung và về các nguồn lực chăm sóc sức khoẻ nói riêng cũng như những thay đổi cụ thể hơn liên quan tới khách hàng của các nguồn lực chăm sóc sức khoẻ và chi phí cho cộng đồng của các nguồn lực đó.

Thus, in the 1950s and 1960s, there emerged an awareness in Western societies that resources for the provision of fossil fuel energy were finite and exhaustible and that the capacity of nature or the environment to sustain economic development and population was also finite.
Do đó, trong những năm 1950 và 1960, nổi lên một nhận thức trong các xã hội phương Tây cho rằng nguồn cung cấp năng lượng nhiên liệu hóa thạch là hữu hạn và có thể cạn kiệt và rằng năng lực của tự nhiên hoặc môi trường để duy trì sự phát triển kinh tế và dân số cũng có giới hạn.

In other words, we became aware of the obvious fact that there were ‘limits to growth’.
Nói cách khác, chúng ta đã nhận thức được thực tế rõ ràng rằng có 'giới hạn về sự tăng trưởng'.

The new consciousness that there were also severe limits to health-care resources was part of this general revelation of the obvious.
Những sự hiểu biết mới cũng có những giới hạn nghiêm trọng đối với các nguồn lực chăm sóc sức khoẻ là một phần của sự khám phá chung hiển nhiên này.

Looking back, it now seems quite incredible that in the national health systems that emerged in many countries in the years immediately after the 1939-45 World War, it was assumed without question that all the basic health needs of any community could be satisfied, at least in principle; the ‘invisible hand’ of economic progress would provide.
Nhìn lại, bây giờ dường như không thể tin rằng trong các hệ thống y tế quốc gia xuất hiện ở nhiều nước trong những năm ngay sau Thế chiến 1939-45, giả sử không có nghi ngờ rằng tất cả nhu cầu sức khoẻ cơ bản của bất kỳ cộng đồng nào cũng có thể được đáp ứng, Ít nhất về nguyên tắc; “Bàn tay vô hình” của tiến bộ kinh tế sẽ cung cấp.

Section C

However, at exactly the same time as this new realisation of the finite character of health-care resources was sinking in, an awareness of a contrary kind was developing in Western societies: that people have a basic right to health-care as a necessary condition of a proper human life.
Tuy nhiên, đúng lúc việc nhận thức mới về tính hữu hạn của các nguồn lực chăm sóc sức khoẻ đang chìm dần, một kiểu nhận thức trái ngược đang phát triển trong các xã hội phương Tây rằng: mọi người đều có quyền cơ bản về chăm sóc sức khoẻ như là một điều kiện cần thiết của cuộc sống con người riêng biệt.

Like education, political and legal processes and institutions, public order, communication, transport and money supply, health-care came to be seen as one of the fundamental social facilities necessary for people to exercise their other rights as autonomous human beings.
Giống như giáo dục, các quá trình thể chế chính trị và pháp luật, trật tự công cộng, truyền thông, nguồn cung tiền và vận tải, chăm sóc sức khoẻ được coi là một trong những cơ sở xã hội cơ bản cần thiết cho người dân thực hiện các quyền khác như con người tự trị.

People are not in a position to exercise personal liberty and to be self-determining if they are poverty-stricken, or deprived of basic education, or do not live within a context of law and order.
Mọi người không ở tư thế thực hiện quyền tự do cá nhân và tự quyết định nếu họ đang nghèo đói, hoặc bị tước đoạt nền giáo dục cơ bản, hoặc không sống trong một bối cảnh của pháp luật và trật tự.

In the same way, basic health-care is a condition of the exercise of autonomy.
Cũng giống như vậy, chăm sóc sức khoẻ cơ bản là điều kiện để thực hiện quyền tự chủ.

Section D

Although the language of ‘rights’ sometimes leads to confusion,by the late 1970s it was recognised in most societies that people have a right to health-care (though there has been considerable resistance in the United States to the idea that there is a formal right to health-care).
Mặc dù cách diễn đạt của 'quyền' đôi khi dẫn đến sự nhầm lẫn, vào cuối những năm 1970 nó đã được hầu hết các xã hội thừa nhận rằng mọi người đều có quyền được chăm sóc sức khoẻ (mặc dù có sự phản đối đáng kể ở Hoa Kỳ với ý tưởng rằng có một Quyền chăm sóc sức khoẻ).

It is also accepted that this right generates an obligation or duty for the state to ensure that adequate health-care resources are provided out of the public purse.
Thừa nhận rằng quyền này tạo ra trách nhiệm hoặc nghĩa vụ đối với nhà nước để đảm bảo rằng các nguồn lực chăm sóc sức khoẻ đủ để được cung cấp từ ngân quỹ nhà nước.

The state has no obligation to provide a health-care system itself, but to ensure that such a system is provided.
Nhà nước không có nghĩa vụ cung cấp một hệ thống chăm sóc sức khoẻ, nhưng đảm bảo rằng một hệ thống như vậy được cung cấp.

Put another way, basic health-care is now recognised as a ‘public good’, rather than a ‘private good’ that one is expected to buy for oneself.
Nói một cách khác, chăm sóc sức khoẻ cơ bản bây giờ được công nhận là "hàng hoá công cộng" chứ không phải là "hàng hoá cá nhân" mà ai đó mong muốn mua cho chính mình.

As the 1976 declaration of the World Health Organisation put it: ‘The enjoyment of the highest attainable standard of health is one of the fundamental rights of every human being without distinction of race, religion, political belief, economic or social condition.
Theo tuyên bố năm 1976 của Tổ chức Y tế Thế giới, "Việc hưởng thụ các tiêu chuẩn sức khoẻ cao nhất có thể đạt được là một trong những quyền cơ bản của mọi người không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, tín ngưỡng chính trị, điều kiện kinh tế hoặc xã hội.

’ As has just been remarked, in a liberal society basic health is seen as one of the indispensable conditions for the exercise of personal autonomy.
Như được lưu ý, trong xã hội tự do, sức khoẻ cơ bản được coi là một trong những điều kiện quan trọng cho việc thực hiện quyền tự chủ cá nhân.

Section E

Just at the time when it became obvious that health-care resources could not possibly meet the demands being made upon them, people were demanding that their fundamental right to health-care be satisfied by the state.
Ngay vào thời điểm mà rõ ràng là các nguồn lực chăm sóc sức khoẻ không thể đáp ứng được nhu cầu của mọi người, họ đòi hỏi nhà nước phải thỏa mãn về quyền cơ bản của họ trong chăm sóc sức khoẻ.

The second set of more specific changes that have led to the present concern about the distribution of health-care resources stems from the dramatic rise in health costs in most OECD1 countries, accompanied by large-scale demographic and social changes which have meant, to take one example, that elderly people are now major (andrelatively very expensive) consumers of health-care resources.
Tập hợp thứ hai của các thay đổi đặc trưng đã dẫn đến sự quan tâm hiện tại về phân bố nguồn lực chăm sóc sức khoẻ bắt nguồn từ sự gia tăng đáng kể về chi phí y tế ở hầu hết các nước OECD, kèm với những thay đổi về nhân khẩu học và xã hội quy mô lớn, có nghĩa là, ví dụ, người cao tuổi hiện nay là người tiêu dùng chính (và chi phí tương đối đắt) các nguồn lực chăm sóc sức khoẻ.

Thus in OECD countries as a whole, health costs increased from 3,8% of GDP1 2 in 1960 to 7% of GDP in 1980, and it has been predicted that the proportion of health costs to GDP will continue to increase.
Như vậy ở các nước OECD nói chung, chi phí y tế tăng từ 3,8% GDP năm 1960 lên 7% GDP vào năm 1980 và dự đoán tỷ trọng chi phí y tế cho GDP sẽ tiếp tục tăng.

(In the US the current figure is about 12% of GDP, and in Australia about 7,8% of GDP) As a consequence, during the 1980s a kind of doomsday scenario (analogous to similar doomsday extrapolations about energy needs and fossil fuels or about population increases) was projected byhealth administrators, economists and politicians.
(Ở Mỹ, con số hiện tại khoảng 12% GDP, và ở Úc khoảng 7,8% GDP) Do đó, trong những năm 1980, kịch bản ngày tận thế (tương tự như sự ngoại suy ngày tận thế tương tự về nhu cầu năng lượng và nhiên liệu hóa thạch hoặc tăng dân số) được dự đoán bởi các nhà quản lý y tế, các nhà kinh tế học và các chính trị gia.

In this scenario, ever-rising health costs were matched against static or declining resources.
Trong kịch bản này, chi phí y tế ngày càng tăng đã được kết hợp với tài nguyên ổn định hoặc giảm.

Tiếng Pháp cơ bản dành cho người mới bắt đầu 1

 Bài 1 Bảng chữ cái tiếng Pháp - L'Alphabet   


Bài 2 Cách phát âm trong tiếng Pháp   


Bài 3 Chào và giới thiệu bản thân   









Alternative Medicine in Australia: Những liệu pháp thay thế thuốc ở Úc

 


A

The first students to study alternative medicine at university level in Australia began their four-year, full-time course at the University of Technology, Sydney, in early 1994.
Sinh viên đầu tiên theo học y học thay thế ở bậc đại học tại Úc đã bắt đầu khóa học 4 năm, toàn thời gian tại Đại học Công nghệ, Sydney vào đầu năm 1994.

Their course covered, among other therapies, acupuncture.
Khóa học của họ bao gồm châm cứu và các liệu pháp khác.

The theory they learnt is based on the traditional Chinese explanation of this ancient healing art: that it can regulate the flow of‘Qi’ or energy through pathways in the body.
Lý thuyết mà họ học được dựa trên lời giải thích của Trung Quốc truyền thống về nghệ thuật chữa bệnh cổ đại này: nó có thể điều chỉnh dòng chảy của 'Qi' hoặc năng lượng thông qua các con đường trong cơ thể.

This course reflects how far some alternative therapies have come in their struggle for acceptance by the medical establishment.
Khóa học này phản ánh một số phương pháp điều trị thay thế đã được tiến hành xa như thế nào trong cuộc đấu tranh cho sự chấp nhận bởi việc thành lập trường y.

B

Australia has been unusual in the Western world in having a very conservative attitude to natural or alternative therapies, according to Dr Paul Laver, a lecturer in Public Health at the University of Sydney.
Theo giáo sư Paul Laver, giảng viên về YTCC tại Đại học Sydney, Australia đã rất đáng chú ý ở phương Tây về thái độ rất bảo thủ đối với các liệu pháp tự nhiên hoặc thay thế.

‘We’ve had a tradition of doctors being fairly powerful and I guess they are pretty loath to allow any pretenders to their position to come into it.
"Chúng tôi đã có truyền thống về các bác sĩ khá mạnh và tôi cho rằng họ khá miễn cưỡng để cho phép bất kỳ người đòi hỏi không chính đáng nào có khả năng tham gia vào nó.

’ In many other industrialised countries, orthodox and alternative medicine have worked ‘hand in glove’ for years.
" Ở nhiều nước công nghiệp hóa khác, thuốc chính thống và thuốc thay thế đã làm "cộng tác" trong nhiều năm.

In Europe, only orthodox doctors can prescribe herbal medicine.
Ở Châu u, chỉ có bác sĩ chính thống mới có thể kê toa thuốc thảo dược.

In Germany, plant remedies account for 10% of the national turnover of pharmaceuticals.
Tại Đức, các biện pháp khắc phục cây trồng chiếm 10% tổng doanh thu dược phẩm quốc gia.

Americans made more visits to alternative therapists than to orthodox doctors in 1990, and each year they spend about $USi2 billion on therapies that have not been scientifically tested.
Người Mỹ đã thăm nhiều bác sĩ trị liệu thay thế hơn các bác sĩ chính thống vào năm 1990, và mỗi năm họ chi tiêu khoảng 2 tỷ đô la Mỹ cho các liệu pháp chưa được kiểm tra khoa học.

C

Disenchantment with orthodox medicine has seen the popularity of alternative therapies in Australia climb steadily during the past 20 years.
Sự tan vỡ ảo tưởng với thuốc chính thống đã chứng kiến sự phổ biến của các liệu pháp thay thế ở Úc tăng lên một cách đều đặn trong suốt 20 năm qua.

In a 1983 national health survey, 1,9% of people said they had contacted a chiropractor, naturopath, osteopath, acupuncturist or herbalist in the two weeks prior to the survey.
Trong một cuộc điều tra y tế quốc gia năm 1983, 1,9% người cho biết họ đã liên lạc với một bác sĩ nắn xương, naturopath, nha sĩ, bác sĩ châm cứu hay nhà thảo mộc trong hai tuần trước cuộc khảo sát.

By 1990, this figure had risen to 2,6% of the population.
Đến năm 1990, con số này đã tăng lên 2,6% dân số.

The 550,000 consultations with alternative therapists reported in the 1990 survey represented about an eighth of the total number of consultations with medically qualified personnel covered by the survey, according to Dr Laver and colleagues writing in the Australian Journal of Public Health in 1993.
Tiến sĩ Laver và các cộng sự viết trong Tạp chí Y tế Công cộng của Úc năm 1993 cho biết 550,000 cuộc tư vấn với các nhà trị liệu thay thế đã báo cáo trong cuộc điều tra năm 1990 cho thấy khoảng một phần tám trong số các cuộc tham vấn với các nhân viên có trình độ chuyên môn về y khoa được điều tra.

‘A better educated and less accepting public has become disillusioned with the experts in general, and increasingly sceptical about science and empirically based knowledge,’ they said.
Việc giáo dục tốt hơn và ít chấp nhận của công cộng đã trở nên tan vỡ ảo tưởng với các chuyên gia nói chung, và ngày càng hoài nghi về khoa học và kiến thức dựa trên thực nghiệm ", họ nói.

‘The high standing of professionals, including doctors, has been eroded as a consequence.
"Do đó việc đứng ở vị trí các chuyên gia, bao gồm các bác sĩ, đã bị ăn mòn.

D

’ Rather than resisting or criticising this trend, increasing numbers of Australian doctors, particularly younger ones, are forming group practices with alternative therapists ortaking courses themselves, particularly in acupuncture and herbalism.
" Thay vì chống lại hoặc chỉ trích xu hướng này, ngày càng có nhiều bác sĩ Úc, đặc biệt là những người trẻ hơn, đang hình thành các nhóm thực hành với các nhà trị liệu thay thế hoặc tham gia các khóa học, đặc biệt là trong châm cứu và thảo dược.

Part of the incentive was financial, Dr Laver said.
Tiến sĩ Laver cho biết một phần khuyến khích là tài chính.

‘The bottom line is that most general practitioners are business people.
'Điểm mấu chốt là hầu hết các bác sĩ đa khoa đều là những người kinh doanh.

If they see potential clientele going elsewhere, they might want to be able to offer a similar service.
Nếu họ nhìn thấy các khách hàng tiềm năng đi nơi khác, họ có thể muốn cung cấp một dịch vụ tương tự.

E

’ In 1993, Dr Laver and his colleagues published a survey of 289 Sydney people who attended eight alternative therapists’ practices in Sydney.
" Năm 1993, Tiến sĩ Laver và cộng sự của ông đã công bố một cuộc khảo sát về 289 người ở Sydney tham dự tám hoạt động của các nhà trị liệu thay thế ở Sydney.

These practices offered a wide range of alternative therapies from 25 therapists.
Những phương pháp này cung cấp một loạt các liệu pháp thay thế từ 25 liệu pháp trị liệu.

Those surveyed had experienced chronic illnesses, for which orthodox medicine had been able to provide little relief.
Những người được điều tra đã trải qua các bệnh mãn tính, mà thuốc chính thống đã có thể cung cấp ít cứu trợ.

They commented that they liked the holistic approach of their alternative therapists and the friendly, concerned and detailed attention they had received.
Họ nhận xét rằng họ thích cách tiếp cận toàn diện của các nhà trị liệu thay thế của họ và sự quan tâm thân thiện, quan tâm và chi tiết mà họ nhận được.

The cold, impersonal manner of orthodox doctors featured in the survey.
Các bác sĩ chính thống lạnh lẽo mang tính cá nhân đặc trưng trong cuộc khảo sát.

An increasing exodus from their clinics, coupled with this and a number of other relevant surveys carried out in Australia, all pointing to orthodox doctors’ inadequacies, have led mainstream doctors themselves to begin to admit they could learn from the personal style of alternative therapists.
Một cuộc di cư ngày càng gia tăng từ các phòng khám của họ, cùng với điều tra này và một số cuộc khảo sát liên quan khác được thực hiện ở Úc, tất cả chỉ ra những bất cập của các bác sỹ chính thống, đã khiến các bác sỹ chính thống bắt đầu thừa nhận rằng họ có thể học được từ phong cách cá nhân của các nhà trị liệu thay thế.

Dr Patrick Store, President of the Royal College of General Practitioners, concurs that orthodox doctors could learn a lot about bedside manner and advising patients on preventative health from alternative therapists.
Tiến sĩ Patrick Store, Chủ tịch của Đại học Hoàng gia Pháp Luân Công, đồng tình rằng các bác sĩ chính thống có thể học hỏi rất nhiều về cách ngủ và khuyên bệnh nhân về sức khoẻ dự phòng từ các nhà trị liệu thay thế.

F

According to the Australian Journal of Public Health, 18% of patients visiting alternative therapists do so because they suffer from musculo-skeletal complaints; 12% suffer from digestive problems, which is only 1% more than those suffering from emotional problems.
Theo Australian Journal of Public Health, 18% bệnh nhân đến các nhà trị liệu thay thế làm như vậy vì họ bị tổn thươn từ các chứng bệnh cơ xương; 12% bị các vấn đề về tiêu hóa, chỉ cao hơn 1% so với những người có vấn đề về tình cảm.

Those suffering from respiratory complaints represent 7% of their patients, and Candida sufferers represent an equal percentage.
Những người bị các khiếu nại hô hấp đại diện cho 7% bệnh nhân của họ, và Candida sufferers đại diện cho một tỷ lệ phần trăm bằng nhau.

Headache sufferers and those complaining of general ill health represent 6% and 5% of patients respectively, and a further 4% see therapists for general health maintenance.
Những người đau đầu và những người phàn nàn về tình trạng sức khoẻ chung là 6% và 5% bệnh nhân, và 4% nữa là các nhà trị liệu để duy trì sức khoẻ nói chung.

G

The survey suggested that complementary medicine is probably a better term than alternative medicine.
Cuộc khảo sát cho thấy thuốc bổ sung có lẽ là một thuật ngữ tốt hơn thuốc thay thế.

Alternative medicine appears to be an adjunct, sought in times of disenchantment when conventional medicine seems not to offer the answer.
Y học thay thế có vẻ như là một vật phụ thêm vào, được tìm kiếm trong thời kỳ tỉnh ngộ khi thuốc thông thường dường như không cung cấp đủ câu trả lời.

NGỌC THU

ARTCANDY SHOP NGỌC THU -     Trên   bước   đường   THÀNH   CÔNG , không   có   dấu   chân   của   những   kẻ   LƯỜI   BIẾNG . ...