Australia is the
smallest continent of the world.
|
Nước Úc là lục địa nhỏ nhất
thế giới.
|
It was first found by a Spanish
monk.
|
Nó được tìm thấy đầu tiên
bởi một nhà sư Tây Ban Nha.
|
His name was Andres de
Urdaneta.
|
Ông ta tên là Andres de
Urdaneta
|
Andres de Urdaneta
crossed the Pacific Ocean in 1565.
|
Andres de Urdaneta đã vượt
qua Thái Bình Dương vào năm 1565.
|
He told everyone he
believed there was a continent lying there.
|
Ông nói với tất cả mọi
người là ông tin có một lục địa nằm ở đó.
|
This continent
must be somewhere on the western tip of South America.
|
Châu lục này ở đâu nằm ở
đâu đó trên mũi phía tây của Nam Mỹ.
|
A few years later, the
King of Spain asked a ship captain to go find that continent.
|
Một vài năm sau, Vua Tây
Ban Nha đã yêu cầu một thuyền trưởng đi tìm lục địa đó.
|
He reached the New
Hebrides Island in 1606.
|
Ông ấy đã đến đảo New
Hebrides vào năm 1606.
|
He thought he had found
what he was looking for.
|
Ông nghĩ rằng ông đã tìm
thấy những gì ông đang Tìm kiếm.
|
So he named the islands
“Australia” after the King of Spain who also was Archduke of Austria
|
Vì vậy, ông đặt tên cho hòn
đảo này là "Australia" theo tên của vua Tây Ban Nha cũng là Đại
công tước Áo.
|
In those times, Spain
and the Netherlands were the most powerful nations in the world.
|
Vào thời đó, Tây Ban Nha và
Hà Lan là những quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới.
|
Spain had colonies in
South America, while the Dutch occupied countries in South East Asia.
|
Tây Ban Nha có thuộc địa ở
Nam Mỹ, trong khi Hà Lan chiếm các nước ở khu vực Đông Nam Á.
|
When they heard about
Spain’s discoveries, they quickly sent their own ships there.
|
Khi người Hà Lan nghe thông
tin về những khám phá của Tây Ban Nha thì họ nhanh chóng đưa tàu của mình đến
đó
|
The Dutch captain Willem
Jantzsoon was the first to actually set foot in Australia.
|
Thuyền trưởng người Hà Lan
Willem Jantzsoon là người đầu tiên thực sự đặt chân tới Úc.
|
He sailed into the Gulf
of Carpentaria on the northern part of Australia in 1606 as well.
|
Ông cũng đã đi tàu vào vịnh
Carpentaria ở phần phía bắc của Úc năm 1606.
|
Another Dutchman, Abel
Tasman, sighted the island Tasmania in 1642.
|
Một người Hà Lan khác là
Abel Tasman đã nhìn thấy hòn đảo Tasmania vào năm 1642.
|
He saw it from his ship,
landed there and called it Van Diemen’s Land.
|
Ông đã nhìn thấy nó từ con
tàu của mình, sau đó ông ghé ở đó và gọi nó là vùng đất Van Diemen.
|
This was the name of the
person he worked for.
|
Đây là tên của ông chủ anh
ta.
|
Tasman also found New
Zealand, Tonga and Fiji.
|
Tasman cũng tìm thấy New
Zealand, Tonga và Fiji.
|
To reward him for his
discoveries, the Dutch renamed Van Diemen’s Land Tasmania.
|
Để tưởng thưởng cho ông ta
vì những khám phá của ông, người Hà Lan đã đổi tên vùng đất này thành
Tasmania Van Diemen.
|
In the 18th century, the
British Empire was facing trouble.
|
Trong thế kỷ 18, Đế quốc
Anh đã phải đối mặt với rắc rối.
|
There were many thieves
and criminals in England.
|
Có rất nhiều trộm và tội
phạm ở Anh.
|
The British planned to
ship them off to some faraway place.
|
Người Anh đã lên kế hoạch
đày chúng đến một số nơi xa bằng tàu.
|
They hoped the country
would safer if they sent these criminals away.
|
Họ hy vọng đất nước mình sẽ
an toàn hơn nếu họ đẩy những tên tội phạm đi.
|
They also thought a new
colony would make the Empire richer and more powerful.
|
Họ cũng nghĩ rằng một thuộc
địa mới sẽ làm cho đế quốc họ phong phú hơn và mạnh mẽ hơn.
|
The British asked
Captain James Cook to sail in Australia.
|
Người Anh đã yêu cầu thuyền
trưởng James Cook lái thuyền tới Úc.
|
Cook was very skilled navigator.
|
Cook là người có kỹ năng
rất tốt về hoa tiêu.
|
He knew how to sail
ships and he was also disciplined and organized.
|
Ông ta biết làm thế nào để
lái tàu và ông cũng người rất kỷ luật và có tổ chức.
|
Cook made his sailors
bathe every day and eat a lot of fresh fruit to stay healthy.
|
Cook bắt thủy thủ của mình
phải tắm nắng mỗi ngày và ăn nhiều trái cây tươi để giữ gìn sức khỏe.
|
In 1769, he left for
Tahiti together with a botanist and two artists.
|
Năm 1769, ông rời Tahiti
cùng với một Nhà thực vật học và hai nghệ sĩ.
|
They were supposed to
find new plants.
|
Họ được yêu cầu tìm các
loài thực vật mới.
|
But actually their
secret mission was to set up new British colonies
in Australia.
|
Nhưng thực ra nhiệm vụ bí
mật của họ là để thiết lập các thuộc địa mới của Anh tại Úc.
|
Cook landed on the east
coast of Australia in April 1770
|
Cook đã đổ bộ lên bờ biển
phía đông của Úc vào tháng Tư 1770.
|
He named the placed
Botany Bay after the many plants the scientist found there.
|
Ông đã đặt tên nơi này là
Botany Bay vì có nhiều loài thực vật mà các nhà khoa học tìm thấy ở đó.
|
But the voyage was very eventful.
|
Nhưng chuyến đi đã có nhiều
biến cố xảy ra.
|
Cook had to fight
against a group of Maori native warriors.
|
Cook đã phải chiến đấu
chống lại một nhóm các chiến binh Maori bản địa.
|
Later, his ship ran into
a coral reef and was badly damaged.
|
Sau đó, tàu của ông chạy
vào một rạn san hô và bị hư hỏng nặng.
|
In 1779, a storm forced him to land in Hawaii.
|
Năm 1779, một cơn bão đã
buộc ông phải cho tàu cập bến ở Hawaii.
|
The Hawaiians hated Cook
because he was violent and cruel.
|
Những người Hawaii rất ghét
Cook vì ông là người bạo lực và độc ác.
|
They used their knives
and stabbed him to death.
|
Họ đã dùng dao và đâm ông
chết .
|
In January 1778, a
French ship landed in Australia.
|
Vào tháng Giêng năm 1778,
một chiếc tàu của Pháp đã cập bến tại Úc.
|
But it was too late
|
Nhưng đã quá trễ.
|
The British had already
colonized the new continent.
|
Người Anh đã chiếm đóng lục
địa mới này rồi.
|
CHUYÊN SẢN XUẤT VÀ PHÂN PHỐI CÁC LOẠI KẸO CỨNG: KẸO NGHỆ THUẬT, KẸO MÚT, KẸO GẬY, ... NHẬN ĐẶT HÀNG CHO TIỆC CƯỚI, TIỆC SINH NHẬT, CÁC SỰ KIỆN,... SỬ DỤNG NGUYÊN LIỆU UY TÍN. KHÔNG SỬ DỤNG CHẤT BẢO QUẢN. ĐT.: 039.358-7695 ; 035.349-6528
- 00 NGỌC THU (254)
- 01 KẸO NGHỆ THUẬT (35)
- 02 KẸO TÚI (31)
- 03 KẸO HŨ (33)
- 04 KẸO MÚT (33)
- 05 KẸO GẬY (48)
- 06 VĂN HÓA (432)
- 07 BÁO SONG NGỮ (209)
- 08 LUYỆN NGHE (389)
- 09 TỰ HỌC IELTS (609)
- 10 TỰ HỌC TOEFL (534)
- 11 TỰ HỌC TOEIC (565)
- 12 VOCABULARY (252)
- 13 WRITING (5)
- 14 VIDEO (393)
- 15 MUSIC (6)
- BASIC (125)
- CAM 12 (17)
- CNN (54)
- COLLOCATION (24)
- Collocations in Use (3)
- EVERYDAY (172)
- GIẢI TRÍ (39)
- IELTS 12 (15)
- IELTS READING (211)
- NHẠC ANH (6)
- Quartz (1)
- SAT (2)
- SOFTS (7)
- SPOTLIGHT (20)
- TÂM LINH (15)
- TED (18)
- VOA (157)
- VTV7 (39)
Discovering Australia - Khám phá nước Úc
Hãy dạy học vì sự làm chủ, không phải vì điểm số
Trong võ thuật, bạn sẽ phải học những kỹ năng của đai trắng đủ lâu, và chỉ khi
bạn nắm vững nó bạn mới lên được đai vàng.
It's the way you learn a musical instrument: you practice the
basic piece over and over again, and only when you've mastered it, you go on to
the more advanced one.
Đó là cách bạn học chơi một nhạc cụ: đầu tiên là tập đi tập lại những bản nhạc cơ bản và chỉ khi nào nắm vững nó, bạn mới đến với những bản khó hơn.
Đó là cách bạn học chơi một nhạc cụ: đầu tiên là tập đi tập lại những bản nhạc cơ bản và chỉ khi nào nắm vững nó, bạn mới đến với những bản khó hơn.
But what we point out — this is not the way a traditional
academic model is structured, the type of academic model that most of us grew
up in.
Nhưng điều ta cần để ý — đây không phải là cách thức tạo nên một khuôn mẫu học thuật truyền thống, cái kiểu mẫu mà đa số ta lớn lên từ đó.
Nhưng điều ta cần để ý — đây không phải là cách thức tạo nên một khuôn mẫu học thuật truyền thống, cái kiểu mẫu mà đa số ta lớn lên từ đó.
In a traditional academic model, we group students together,
usually by age, and around middle school, by age and perceived ability, and we
shepherd them all together at the same pace.
Theo truyền thống, chúng ta thường sắp xếp học sinh theo nhóm tuổi, và ở trung học, theo độ tuổi và năng lực nhận thức và chúng ta xếp chúng vào một không gian.
Theo truyền thống, chúng ta thường sắp xếp học sinh theo nhóm tuổi, và ở trung học, theo độ tuổi và năng lực nhận thức và chúng ta xếp chúng vào một không gian.
And what typically happens, let's say we're in a middle
school pre-algebra class, and the current unit is on exponents, the teacher
will give a lecture on exponents, then we'll go home, do some homework.
Và thứ hiển nhiên xảy đến, nếu ta đang ở trong một lớp tiền đại số trung học, và bài học bấy giờ là về số mũ, giáo viên sẽ giảng về số mũ, rồi chúng ta sẽ về nhà và làm bài tập.
Và thứ hiển nhiên xảy đến, nếu ta đang ở trong một lớp tiền đại số trung học, và bài học bấy giờ là về số mũ, giáo viên sẽ giảng về số mũ, rồi chúng ta sẽ về nhà và làm bài tập.
The next morning, we'll review the homework, then another
lecture, homework, lecture, homework.
Sáng hôm sau, chúng ta sẽ sửa bài tập, rồi giờ học hôm sau, bài tập, giờ học, bài tập.
Sáng hôm sau, chúng ta sẽ sửa bài tập, rồi giờ học hôm sau, bài tập, giờ học, bài tập.
That will continue for about two or three weeks, and then we
get a test.
Việc này sẽ tiếp diễn trong hai hay ba tuần, sau đó là bài kiểm tra.
Việc này sẽ tiếp diễn trong hai hay ba tuần, sau đó là bài kiểm tra.
On that test, maybe I get a 75 percent, maybe you get a 90
percent, maybe you get a 95 percent.
Lúc đó, có lẽ tôi sẽ đạt khoảng 75% thôi, còn bạn có lẽ là 90%, hoặc giả sử là 95%.
Lúc đó, có lẽ tôi sẽ đạt khoảng 75% thôi, còn bạn có lẽ là 90%, hoặc giả sử là 95%.
And even though the test identified gaps in our knowledge, I
didn't know 25 percent of the material.
Và cho dù bài kiểm tra chỉ ra những kiến thức ta bị hỏng, tôi vẫn không nắm được 25% vấn đề.
Và cho dù bài kiểm tra chỉ ra những kiến thức ta bị hỏng, tôi vẫn không nắm được 25% vấn đề.
Even the A student, what was the five percent they didn't
know? Even though we've identified the gaps, the whole class will then move on
to the next subject, probably a more advanced subject that's going to build on
those gaps.
Cho dù có là học sinh A, 5% mà anh ta không nắm gồm những gì? Cho dù ta chỉ ra được những lỗ hổng, cả lớp vẫn cứ tiếp tục với những môn học khác, một môn học có lẽ còn cao cấp hơn được xây dựng trên những lỗ hổng ấy.
Cho dù có là học sinh A, 5% mà anh ta không nắm gồm những gì? Cho dù ta chỉ ra được những lỗ hổng, cả lớp vẫn cứ tiếp tục với những môn học khác, một môn học có lẽ còn cao cấp hơn được xây dựng trên những lỗ hổng ấy.
It might be logarithms or negative exponents.
Đó có thể là loga hoặc số mũ âm.
Đó có thể là loga hoặc số mũ âm.
And that process continues, and you immediately start to
realize how strange this is.
Và quá trình này tái diễn, và bạn lập tức nhận ra rằng thật là kỳ lạ.
Và quá trình này tái diễn, và bạn lập tức nhận ra rằng thật là kỳ lạ.
I didn't know 25 percent of the more foundational thing, and
now I'm being pushed to the more advanced thing.
Tôi không hề biết về 25% của những thứ căn bản nhất, và giờ tôi còn phải học một thứ cao cấp hơn.
Tôi không hề biết về 25% của những thứ căn bản nhất, và giờ tôi còn phải học một thứ cao cấp hơn.
And this will continue for months, years, all the way until
at some point, I might be in an algebra class or trigonometry class and I hit a
wall.
Và điều này sẽ tiếp diễn hàng tháng, hàng năm trời, cho tới một lúc nào đó, có lẽ tôi đang ở một lớp học đại số hoặc lượng giác và tôi bế tắc.
Và điều này sẽ tiếp diễn hàng tháng, hàng năm trời, cho tới một lúc nào đó, có lẽ tôi đang ở một lớp học đại số hoặc lượng giác và tôi bế tắc.
And it's not because algebra is fundamentally difficult or
because the student isn't bright.
Không phải vì đại số khó nhằn hay học sinh không đủ thông minh.
Không phải vì đại số khó nhằn hay học sinh không đủ thông minh.
It's because I'm seeing an equation and they're dealing with
exponents and that 30 percent that I didn't know is showing up.
Lý do là tôi nhìn thấy một phương trình và chúng liên quan đến số mũ và 30% tôi không biết đang hiện ra.
Lý do là tôi nhìn thấy một phương trình và chúng liên quan đến số mũ và 30% tôi không biết đang hiện ra.
And then I start to disengage.
Rồi tôi bắt đầu không quan tâm nữa.
Rồi tôi bắt đầu không quan tâm nữa.
To appreciate how absurd that is, imagine if we did other
things in our life that way.
Để làm rõ điều này ngớ ngẩn đến mức nào, hãy tưởng tượng nếu ta làm việc khác bằng chính cách này.
Để làm rõ điều này ngớ ngẩn đến mức nào, hãy tưởng tượng nếu ta làm việc khác bằng chính cách này.
Say, home-building.
Ví dụ như xây nhà.
Ví dụ như xây nhà.
So we bring in the contractor and say, "We were told we
have two weeks to build a foundation.
Chúng ta mang nhà thầu đến và nói, ''Chúng tôi được yêu cầu xây móng nhà trong hai tuần.
Chúng ta mang nhà thầu đến và nói, ''Chúng tôi được yêu cầu xây móng nhà trong hai tuần.
Do what you can.
Hãy làm gì các cậu có thể.
Hãy làm gì các cậu có thể.
So they do what they can.
Thế là họ làm những gì có thể làm.
Thế là họ làm những gì có thể làm.
Maybe it rains.
Trời có thể mưa.
Trời có thể mưa.
Maybe some of the supplies don't show up.
Có thể thiếu một vài nguyên vật liệu.
Có thể thiếu một vài nguyên vật liệu.
And two weeks later, the inspector comes, looks around, says,
"OK, the concrete is still wet right over there, that part's not quite up
to code .
Và hai tuần sau, thanh tra công trình tới, nhìn quanh, nói, ''OK, bê tông chỗ kia vẫn còn ướt lắm, phần này vẫn chưa ổn lắm .
Và hai tuần sau, thanh tra công trình tới, nhìn quanh, nói, ''OK, bê tông chỗ kia vẫn còn ướt lắm, phần này vẫn chưa ổn lắm .
I'll give it an 80 percent.
Tôi sẽ chấm nó đạt 80%.
Tôi sẽ chấm nó đạt 80%.
You say, "Great! That's a C.
Bạn nói, ''Tuyệt! Đạt điểm C rồi.
Bạn nói, ''Tuyệt! Đạt điểm C rồi.
Let's build the first floor.
Hãy xây tầng một nào.
Hãy xây tầng một nào.
Same thing, we have two weeks, do what you can, inspector
shows up, it's a 75 percent.
Tương tự, chúng ta có hai tuần, làm điều bạn có thể làm và thanh tra công tình tới, đạt 75%.
Tương tự, chúng ta có hai tuần, làm điều bạn có thể làm và thanh tra công tình tới, đạt 75%.
Great, that's a D-plus.
Tuyệt, một điểm D cộng.
Tuyệt, một điểm D cộng.
Second floor, third floor, and all of a sudden, while you're
building the third floor, the whole structure collapses.
Tầng hai, tầng ba được xây lên, và đột nhiên, trong khi đang xây tầng ba, cả công trình sụp đổ.
Tầng hai, tầng ba được xây lên, và đột nhiên, trong khi đang xây tầng ba, cả công trình sụp đổ.
And if your reaction is the reaction you typically have in
education, or that a lot of folks have, you might say, maybe we had a bad contractor,
or maybe we needed better inspection or more frequent inspection.
Và nếu bạn phản ứng lại như cách thông thường bạn được giáo dục, hay cách nhiều người làm, bạn có lẽ sẽ nói, ôi nhà thầu của ta tệ quá, hoặc là có lẽ ta cần kiểm tra kỹ lưỡng và thường xuyên hơn.
Và nếu bạn phản ứng lại như cách thông thường bạn được giáo dục, hay cách nhiều người làm, bạn có lẽ sẽ nói, ôi nhà thầu của ta tệ quá, hoặc là có lẽ ta cần kiểm tra kỹ lưỡng và thường xuyên hơn.
But what was really broken was the process.
Nhưng điều sai lầm nằm ở quá trình.
Nhưng điều sai lầm nằm ở quá trình.
We were artificially constraining how long we had to
something, pretty much ensuring a variable outcome, and we took the trouble of
inspecting and identifying those gaps, but then we built right on top of it.
Chúng ta áp chế thời gian khi phải làm việc gì đó, khăng khăng vào một đầu ra đầy biến động, và ta gặp vấn đề khi kiểm tra và xác định những lỗ hổng ấy, thế rồi ta lại xây lên ngay trên chúng.
Chúng ta áp chế thời gian khi phải làm việc gì đó, khăng khăng vào một đầu ra đầy biến động, và ta gặp vấn đề khi kiểm tra và xác định những lỗ hổng ấy, thế rồi ta lại xây lên ngay trên chúng.
So the idea of mastery learning is to do the exact opposite.
Do đó ý tưởng làm chủ việc học chính là làm ngược lại.
Do đó ý tưởng làm chủ việc học chính là làm ngược lại.
Instead of artificially constraining, fixing when and how
long you work on something, pretty much ensuring that variable outcome, the A,
B, C, D, F — do it the other way around.
Thay vì áp chế, cố canh chỉnh thời gian và thời điểm làm việc gì đó, khăng khăng về một đầu ra đầy biến động, điểm A, B,C ,D, F — hãy làm ngược lại.
Thay vì áp chế, cố canh chỉnh thời gian và thời điểm làm việc gì đó, khăng khăng về một đầu ra đầy biến động, điểm A, B,C ,D, F — hãy làm ngược lại.
What's variable is when and how long a student actually has
to work on something, and what's fixed is that they actually master the
material.
Thứ biến đổi là khi nào và bao lâu một học sinh phải làm một việc gì đó, và điều bất di bất dịch chính là chúng thực sự nắm rõ vấn đề.
Thứ biến đổi là khi nào và bao lâu một học sinh phải làm một việc gì đó, và điều bất di bất dịch chính là chúng thực sự nắm rõ vấn đề.
And it's important to realize that not only will this make
the student learn their exponents better, but it'll reinforce the right mindset
muscles.
Và rất quan trọng để nhận ra rằng điều này không chỉ khiến học sinh học số mũ tốt hơn, mà còn củng cố sức mạnh tư duy.
Và rất quan trọng để nhận ra rằng điều này không chỉ khiến học sinh học số mũ tốt hơn, mà còn củng cố sức mạnh tư duy.
It makes them realize that if you got 20 percent wrong on
something, it doesn't mean that you have a C branded in your DNA somehow.
Nó khiến chúng nhận ra rằng khi gặp phải 20% lỗi sai, không có nghĩa là DNA của ta phải nhận điểm C.
Nó khiến chúng nhận ra rằng khi gặp phải 20% lỗi sai, không có nghĩa là DNA của ta phải nhận điểm C.
It means that you should just keep working on it.
Có nghĩa là ta chỉ cần tiếp tục làm việc.
Có nghĩa là ta chỉ cần tiếp tục làm việc.
You should have grit; you should have perseverance; you
should take agency over your learning.
Phải có sự chịu đựng; tính nhẫn nại; phải có cơ sở cho việc học.
Phải có sự chịu đựng; tính nhẫn nại; phải có cơ sở cho việc học.
Now, a lot of skeptics might say, well, hey, this is all
great, philosophically, this whole idea of mastery-based learning and its
connection to mindset, students taking agency over their learning.
Giờ, nhiều nhà hoài nghi sẽ nói, này, mọi thứ thật tuyệt vời, về mặt lý luận, ý tưởng về việc học làm chủ này và quan hệ của nó với tư duy, học sinh nắm vững cơ sở cho việc học.
Giờ, nhiều nhà hoài nghi sẽ nói, này, mọi thứ thật tuyệt vời, về mặt lý luận, ý tưởng về việc học làm chủ này và quan hệ của nó với tư duy, học sinh nắm vững cơ sở cho việc học.
It makes a lot of sense, but it seems impractical.
Điều này mang nhiều ý nghĩa, nhưng lại phi thực tế.
Điều này mang nhiều ý nghĩa, nhưng lại phi thực tế.
To actually do it, every student would be on their own track.
Để thực sự làm được nó, mỗi học sinh phải tự vận động.
Để thực sự làm được nó, mỗi học sinh phải tự vận động.
It would have to be personalized, you'd have to have private
tutors and worksheets for every student.
Cần có sự cá nhân hóa, cần có gia sư riêng và tài liệu học tập cho mỗi học sinh.
Cần có sự cá nhân hóa, cần có gia sư riêng và tài liệu học tập cho mỗi học sinh.
And these aren't new ideas — there were experiments in
Winnetka, Illinois, 100 years ago, where they did mastery-based learning and
saw great results, but they said it wouldn't scale because it was logistically
difficult.
Và đây không phải ý tưởng mới - từng có các thử nghiệm ở Winnetka, Illinois, 100 năm trước, nơi họ áp dụng cách học làm chủ và thấy kết quả tích cực, nhưng họ cho rằng sẽ không thể cân bằng bởi về logic là rất khó.
Và đây không phải ý tưởng mới - từng có các thử nghiệm ở Winnetka, Illinois, 100 năm trước, nơi họ áp dụng cách học làm chủ và thấy kết quả tích cực, nhưng họ cho rằng sẽ không thể cân bằng bởi về logic là rất khó.
The teacher had to give different worksheets to every
student, give on-demand assessments.
Giáo viên phải đưa ra tài liệu học tập khác nhau cho học sinh, các đánh giá cần thiết.
Giáo viên phải đưa ra tài liệu học tập khác nhau cho học sinh, các đánh giá cần thiết.
But now today, it's no longer impractical.
Nhưng ngày nay, nó không còn phi thực tế nữa.
Nhưng ngày nay, nó không còn phi thực tế nữa.
We have the tools to do it.
Ta có công cụ để thực hiện.
Ta có công cụ để thực hiện.
Students see an explanation at their own time and pace?
There's on-demand video for that.
Học sinh được giải thích đúng lúc và nhanh không? Có video theo yêu cầu về điều đó.
Học sinh được giải thích đúng lúc và nhanh không? Có video theo yêu cầu về điều đó.
They need practice? They need feedback? There's adaptive
exercises readily available for students.
Chúng cần luyện tập? Chúng cần phản hồi? Có những bài tập thiết kế cho học sinh.
Chúng cần luyện tập? Chúng cần phản hồi? Có những bài tập thiết kế cho học sinh.
And when that happens, all sorts of neat things happen.
Và khi điều đó xảy ra, mọi thứ theo guồng xảy ra theo.
Và khi điều đó xảy ra, mọi thứ theo guồng xảy ra theo.
One, the students can actually master the concepts, but
they're also building their growth mindset, they're building grit, perseverance,
they're taking agency over their learning.
Một, học sinh có thể thực sự nắm vững các khái niệm, và cũng tự xây dựng tư duy lòng kiên trì, sự bền bỉ, chúng dần làm chủ việc học của bản thân.
Một, học sinh có thể thực sự nắm vững các khái niệm, và cũng tự xây dựng tư duy lòng kiên trì, sự bền bỉ, chúng dần làm chủ việc học của bản thân.
And all sorts of beautiful things can start to happen in the
actual classroom.
Và những điều tích cực có thể bắt đầu xảy ra ngay trong lớp học.
Và những điều tích cực có thể bắt đầu xảy ra ngay trong lớp học.
Instead of it being focused on the lecture, students can
interact with each other.
Thay vì tập trung vào bài giảng, học sinh có thể tương tác với nhau.
Thay vì tập trung vào bài giảng, học sinh có thể tương tác với nhau.
They can get deeper mastery over the material.
Chúng có thể hiểu vấn đề hơn qua tài liệu.
Chúng có thể hiểu vấn đề hơn qua tài liệu.
They can go into simulations, Socratic dialogue.
Chúng có thể học qua mô phỏng, đối thoại Socrat.
Chúng có thể học qua mô phỏng, đối thoại Socrat.
To appreciate what we're talking about and the tragedy of
lost potential here, I'd like to give a little bit of a thought experiment.
Để làm rõ những điều ta đang nói cũng như bi kịch của những tiềm năng bị đánh mất, tôi muốn nói một chút về một thí nghiệm về suy nghĩ.
Để làm rõ những điều ta đang nói cũng như bi kịch của những tiềm năng bị đánh mất, tôi muốn nói một chút về một thí nghiệm về suy nghĩ.
If we were to go 400 years into the past to Western Europe,
which even then, was one of the more literate parts of the planet, you would
see that about 15 percent of the population knew how to read.
Đặt chân tới Tây Âu 400 năm về trước, một trong những vùng đất văn minh của nhân loại, bạn sẽ nhận ra có đến 15% dân số biết đọc.
Đặt chân tới Tây Âu 400 năm về trước, một trong những vùng đất văn minh của nhân loại, bạn sẽ nhận ra có đến 15% dân số biết đọc.
And I suspect that if you asked someone who did know how to
read, say a member of the clergy, "What percentage of the population do
you think is even capable of reading?" They might say, "Well, with a
great education system, maybe 20 or 30 percent.
Và tôi nghi ngờ rằng nếu bạn yêu cầu một ai đó biết đọc, một nhà tu chẳng hạn, rằng ''Người nghĩ khoảng bao nhiêu phần trăm dân số biết đọc?'' Họ có thể sẽ trả lời rằng, "Ồ, trong một nền giáo dục vĩ đại, có lẽ là 20 hoặc 30%.
Và tôi nghi ngờ rằng nếu bạn yêu cầu một ai đó biết đọc, một nhà tu chẳng hạn, rằng ''Người nghĩ khoảng bao nhiêu phần trăm dân số biết đọc?'' Họ có thể sẽ trả lời rằng, "Ồ, trong một nền giáo dục vĩ đại, có lẽ là 20 hoặc 30%.
But if you fast forward to today, we know that that
prediction would have been wildly pessimistic, that pretty close to 100 percent
of the population is capable of reading.
Nhưng nếu tiến đến thời đại này, chúng ta thừa biết rằng ước đoán ấy hoàn toàn bi quan, bởi gần 100% dân số thế giới biết đọc.
Nhưng nếu tiến đến thời đại này, chúng ta thừa biết rằng ước đoán ấy hoàn toàn bi quan, bởi gần 100% dân số thế giới biết đọc.
But if I were to ask you a similar question: "What
percentage of the population do you think is capable of truly mastering
calculus, or understanding organic chemistry, or being able to contribute to
cancer research?" A lot of you might say, "Well, with a great
education system, maybe 20, 30 percent.
Tuy nhiên nếu tôi hỏi câu hỏi tương tự: ''Bạn nghĩ có bao nhiêu phần trăm dân số có thể nắm vững việc tính toán, hoặc hiểu về hóa hữu cơ, hay có khả năng đóng góp vào những nghiên cứu về ung thư?'' Nhiều người có lẽ đáp rằng, ''Ồ, với nền giáo dục vĩ đại, có lẽ là 20, 30% gì đấy.
Tuy nhiên nếu tôi hỏi câu hỏi tương tự: ''Bạn nghĩ có bao nhiêu phần trăm dân số có thể nắm vững việc tính toán, hoặc hiểu về hóa hữu cơ, hay có khả năng đóng góp vào những nghiên cứu về ung thư?'' Nhiều người có lẽ đáp rằng, ''Ồ, với nền giáo dục vĩ đại, có lẽ là 20, 30% gì đấy.
But what if that estimate is just based on your own
experience in a non-mastery framework, your own experience with yourself or
observing your peers, where you're being pushed at this set pace through
classes, accumulating all these gaps? Even when you got that 95 percent, what
was that five percent you missed? And it keeps accumulating — you get to an
advanced class, all of a sudden you hit a wall and say, "I'm not meant to
be a cancer researcher; not meant to be a physicist; not meant to be a
mathematician.
Nhưng sẽ sao nếu con số đó chỉ dựa vào kinh nghiệm của chính bạn trong bối cảnh thiếu tính làm chủ, trải nghiệm của bạn với bản thân hay việc quan sát bạn bè, nơi bạn được dạy dỗ trong những khuôn mẫu như lớp học, cộng thêm những lỗ hổng này? Thậm chí khi bạn đạt 95%, 5% bạn bỏ lỡ là gì? Và những lỗ hổng cứ thế tăng lên — bạn học lên cao, bạn đột nhiên rơi vào bế tắc và bảo, ''Tôi sẽ không là nhà nghiên cứu ung thư; không là một nhà vật lý; không là một nhà toán học gì cả.
Nhưng sẽ sao nếu con số đó chỉ dựa vào kinh nghiệm của chính bạn trong bối cảnh thiếu tính làm chủ, trải nghiệm của bạn với bản thân hay việc quan sát bạn bè, nơi bạn được dạy dỗ trong những khuôn mẫu như lớp học, cộng thêm những lỗ hổng này? Thậm chí khi bạn đạt 95%, 5% bạn bỏ lỡ là gì? Và những lỗ hổng cứ thế tăng lên — bạn học lên cao, bạn đột nhiên rơi vào bế tắc và bảo, ''Tôi sẽ không là nhà nghiên cứu ung thư; không là một nhà vật lý; không là một nhà toán học gì cả.
I suspect that that actually is the case, but if you were
allowed to be operating in a mastery framework, if you were allowed to really
take agency over your learning, and when you get something wrong, embrace it —
view that failure as a moment of learning — that number, the percent that could
really master calculus or understand organic chemistry, is actually a lot
closer to 100 percent.
Tôi nghi ngờ rằng vấn đề chính là ở đó, nhưng nếu bạn được phép học hành trong một môi trường tự chủ, được cho phép tự xác định cơ sở cho việc học của bản thân, và khi mắc lỗi sai, hãy chấp nhận nó — xem thất bại ấy là dịp để học hỏi — phần trăm những người có thể thực sự nắm vững tính toán hoặc hiểu về hóa hữu cơ, thực tế chiếm gần 100%.
Tôi nghi ngờ rằng vấn đề chính là ở đó, nhưng nếu bạn được phép học hành trong một môi trường tự chủ, được cho phép tự xác định cơ sở cho việc học của bản thân, và khi mắc lỗi sai, hãy chấp nhận nó — xem thất bại ấy là dịp để học hỏi — phần trăm những người có thể thực sự nắm vững tính toán hoặc hiểu về hóa hữu cơ, thực tế chiếm gần 100%.
And this isn't even just a "nice to have".
Và điều này này thậm chí không phải là thứ ''có cũng tốt''.
Và điều này này thậm chí không phải là thứ ''có cũng tốt''.
I think it's a social imperative.
Tôi nghĩ nó là một thiết yếu của xã hội.
Tôi nghĩ nó là một thiết yếu của xã hội.
We're exiting what you could call the industrial age and
we're going into this information revolution.
Chúng ta phấn khích với danh xưng mà ta dùng để gọi thời đại công nghiệp và chúng ta đang tiến vào cuộc cách mạng thông tin này.
Chúng ta phấn khích với danh xưng mà ta dùng để gọi thời đại công nghiệp và chúng ta đang tiến vào cuộc cách mạng thông tin này.
And it's clear that some things are happening.
Và rõ ràng là điều gì đó đang diễn ra.
Và rõ ràng là điều gì đó đang diễn ra.
In the industrial age, society was a pyramid.
Ở thời kỳ công nghiệp, xã hội là một kim tự tháp.
Ở thời kỳ công nghiệp, xã hội là một kim tự tháp.
At the base of the pyramid, you needed human labor.
Dưới đáy kim tự tháp này, bạn cần nhân lực.
Dưới đáy kim tự tháp này, bạn cần nhân lực.
In the middle of the pyramid, you had an information processing,
a bureaucracy class, and at the top of the pyramid, you had your owners of
capital and your entrepreneurs and your creative class.
Ở giữa kim tự tháp, bạn cần một quá trình xử lý thông tin, một tầng hành chính quan liêu, và trên đỉnh kim tự tháp, bạn có những chủ sở hữu của thủ phủ ấy và những nhà khởi nghiệp của bạn và lớp học sáng tạo của bạn.
Ở giữa kim tự tháp, bạn cần một quá trình xử lý thông tin, một tầng hành chính quan liêu, và trên đỉnh kim tự tháp, bạn có những chủ sở hữu của thủ phủ ấy và những nhà khởi nghiệp của bạn và lớp học sáng tạo của bạn.
But we know what's happening already, as we go into this
information revolution.
Nhưng chúng ta biết rõ thứ đã xảy ra, khi tiến vào cuộc cách mạng thông tin này.
Nhưng chúng ta biết rõ thứ đã xảy ra, khi tiến vào cuộc cách mạng thông tin này.
The bottom of that pyramid, automation, is going to take
over.
Cái đáy của kim tự tháp, sự tự động, đang dần chiếm xu thế.
Cái đáy của kim tự tháp, sự tự động, đang dần chiếm xu thế.
Even that middle tier, information processing, that's what
computers are good at.
Thậm chí ở tầng giữa, tầng xử lý thông tin, ở nơi đó máy tính cực kỳ giỏi.
Thậm chí ở tầng giữa, tầng xử lý thông tin, ở nơi đó máy tính cực kỳ giỏi.
So as a society, we have a question:
All this new productivity is happening because of this technology, but who
participates in it? Is it just going to be that very top of the pyramid, in
which case, what does everyone else do? How do they operate? Or do we do
something that's more aspirational? Do we actually attempt to invert the
pyramid, where you have a large creative class, where almost everyone can
participate as an entrepreneur, an artist, as a researcher? And I don't think
that this is utopian.
Vậy như một xã hội, chúng ta tự hỏi: Toàn bộ năng suất mới tạo ra là nhờ công nghệ này, nhưng ai tham gia vào? Liệu công nghệ ấy có trở thành cái đỉnh của kim tự tháp, mà khi đó, những người khác làm gì? Chúng vận hành thế nào? Hay là chúng ta sẽ làm điều gì đó tham vọng hơn? Chúng ta có thực sự cố gắng đảo ngược chiếc kim tự tháp, nơi bạn có một lớp học sáng tạo rộng lớn, nơi hầu hết mọi người có thế tham dự như một nhà khởi nghiệp, một nghệ sỹ, một nhà nghiên cứu? Và tôi không nghĩ rằng đó là viễn tưởng.
Vậy như một xã hội, chúng ta tự hỏi: Toàn bộ năng suất mới tạo ra là nhờ công nghệ này, nhưng ai tham gia vào? Liệu công nghệ ấy có trở thành cái đỉnh của kim tự tháp, mà khi đó, những người khác làm gì? Chúng vận hành thế nào? Hay là chúng ta sẽ làm điều gì đó tham vọng hơn? Chúng ta có thực sự cố gắng đảo ngược chiếc kim tự tháp, nơi bạn có một lớp học sáng tạo rộng lớn, nơi hầu hết mọi người có thế tham dự như một nhà khởi nghiệp, một nghệ sỹ, một nhà nghiên cứu? Và tôi không nghĩ rằng đó là viễn tưởng.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
NGỌC THU
ARTCANDY SHOP NGỌC THU - Trên bước đường THÀNH CÔNG , không có dấu chân của những kẻ LƯỜI BIẾNG . ...
-
In recent study, Swinda Janda and collaborator Hong-Youl Ha of South Korea’s Kangwon National University explored how busi...
-
Trận chiến của giới tính quay quanh khoảng cách của khoa học The debate continues over whether physiological d...
-
Why being bored is stimulating – and useful too Tại sao chán nản lại kích thích tình cảm con người – và cũng hữu ích nữa ...
-
IELTS 0020_CITY = THÀNH PHỐ When my parents retired last year, they traded the towering skyscrapers (very tall buildings) a...
-
CÁC HÌNH THỨC THẢO LUẬN HIỆN NAY In this context, the word form refers to the type of format of discussion. Trong ngữ...
-
Bán những viên thực phẩm chức năng có lợi cho sức khỏe A The introduction of iodine to Morton Salt in 1924 was instrumen...
-
BK HCM 1 (1 byte) (196 phông): http://www.mediafire.com/?nn5vggi0teizc5c BK HCM 2 (2 byte) (279 phông): http://www.mediafire.com/...
-
Yêu cầu quá mức với những người trẻ Being able to multitask is hailed by most people as a welcome skill, but according ...
-
Sưu Tập Đề thi IELTS Writing 2017 (Task 1 & Task 2) Tháng 1 1. Đề thi ngày 7/1/2017 Task 1: Bar praph Task 2: Some ...
-
Tác hại của sách có minh hoạ hình ảnh A There is a great concern in Europe and North America about declining standards ...