Information theory - the big idea: Lý thuyết thông tin - Ý tưởng lớn


Information theory lies at the heart of everything-from DVD players and genetic code of DNA to the physics of universe at its most fundamental. 

Lý thuyết thông tin nằm ở trong tim của mọi vật từ đầu đĩa DVD và mã di truyền ADN tới các vật thể đơn giản nhất trong vũ trụ. 

 

It has been central to the development of the science of communication, which enables data to be sent electronically and has therefore had a major impact on our life.

Nó đã là trung tâm của sự phát triển của khoa học truyền thông, cho phép dữ liệu được gửi bằng điện tử và do đó có tác động to lớn đến cuộc sống của chúng ta.

 
A

In April 2002 an event took place which demonstrated one of the many applications of information theory.

Vào tháng 4 năm 2002, 1 sự kiện đã tổ chức chứng minh một trong nhiều ứng dụng của lý thuyết thông tin.

 

The space probe, Voyager I, launched in 1977, had sent back spectacular images of Jupiter and Santurn and then soared out of Solar System on one-way mission to the stars.

Tàu du hành vũ trụ, Voyager I, đưa ra năm 1977, đã gửi trở lại các hình ảnh kì lạ của sao Mộc và sao Thổ và sau đó bay ra ngoài hệ mặt trời với sứ mệnh là tới các ngôi sao.

 

After 25 years of exposure to the freezing temperatures of deep space, the probe was beginning to show its age.

Sau 25 năm tiếp xúc với nhiệt độ đông cứng của không gian sâu thẳm, tàu vũ trụ đã bắt đầu cho thấy thời kì của nó.

 

Sensors and circuits were on the brink of failing and NASA experts realised that they had to do something or lose contact with their probe forever.

Các cảm biến và mạch đã đứng trên bờ vực thất bại và các chuyên gia NASA đã nhận ra rằng chúng ta phải làm gì đó hoặc sẽ mất con tàu mãi mãi.

 

The solution was to get a message to Voyager I to instruct it to use spares to change the failing parts.

Giải pháp là gửi 1 thông điệp tới tàu Voyager I để hướng dẫn nó sử dụng các phần dự trữ để sửa chữa các bộ phận hỏng.

 

With the probe 12 billion kilometres from Earth, this was not easy task.

Với 1 con tàu cách Trái đất 12 tỉ km, thì đó là bài toán không hề dễ.

 

By means of a radio dish belonging to NASA’s Deep Space Network, the message was sent out into depths of space.

Bằng một chiếc đĩa vô tuyến thuộc Mạng Không gian Vũ trụ của NASA, thông điệp đã được gửi đi vào khoảng không của không gian.

 

Even travelling at the speed of light, it took over 11 hours to reach its target, beyond the orbit of Pluto.

Dù cho hành trình đi với tốc độ ánh sáng, nó cũng mất hơn 11 tiếng để tới điểm mong muốn, lớn hơn quỹ đạo của sao Diêm Vương.

 

Yet, incredibly, the little probe managed to hear the faint call from its home planet, and successfully made the switchover.

Tuy nhiên, thật kì diệu, chiếc tàu vũ trụ nhỏ bé đã xoay sở để nghe tiếng gọi yếu ớt từ hành tinh nó, và đã thành công việc chuyển đổi.

 
B

It was the longest - distance repair job in history, and a triumph for the NASA engineers.

Đó là công việc sửa chữa với quãng đường xa nhất trong lịch sử, và là một thắng lợi cho các kỹ sư NASA. 

 

But it also highlighted the astonishing power of the techniques developed by American communication engineer Claude Shannon, who had died just a year earlier.

Nhưng nó cũng đánh dấu sức mạnh đáng ngạc nhiên của kỹ thuật phát triển bởi kỹ sư truyền thông Mỹ Claude Shannon, người mới mất một năm trước.

 

Born in 1916 in Petoskey, Michigan, Shannon showed an early talent for Maths and for building gadgets, and made breakthroughs in the foundations of computer technology when a student.

Sinh năm 1916 tại Petoskey, Michigan, Shannon đã biểu hiện là một tài năng sớm về toán học và các công cụ xây dựng, và mang đến sự phát triển quan trọng trong nền tảng của kỹ thuật máy tính khi là một sinh viên.

 

While at Bell labratories, Shannon developed Information Theory, but shunned the resulting acclaim.

Trong khi tại các phòng thí nghiệm Bell, Shannon đã phát triển lý thuyết thông tin, thì kết quả đó lại không được ca ngợi.

 

In the 1940s, he single – handedly created an entire science of communication which has since inveigled its way into a host of applications, from DVDs to satelite communications to bar codes-any area, in short, where data has to be conveyed rapidly yet accuratedly.

Trong những năm 1940, ông ấy tự tạo ra toàn bộ khoa học truyền thông cái mà từ đó truyền tải các ứng dụng của nó từ DVD đến các vệ tinh tới các vạch mã, hay bất kì nơi nào, nơi mà dữ liệu được truyền tải nhanh chóng mà chính xác. 

 

C

This all seems light years away from the down-to-earth uses Shannon originally had for his work, which began when he was a 22-year-old graduate engineering student at the prestigious Massachusetts Institute of Technology in 1939.

Tất cả điều đó dường như xa rời nhiều năm ánh sáng từ những cách sử dụng viển vông của Shannon bắt nguồn việc làm của ông ấy, bắt đầu khi ông ấy là một sinh viên kỹ thuật 22 tuổi tốt nghiệp tại Học viện kỹ thuật Massachusetts nổi tiếng năm 1939.

 

He set out with an apparently simple aim: to pin down the precise meaning of concept of “information”.

Ông đã thiết lập một mục đích dường như rất đơn giản: định nghĩa ý nghĩa chính xác của khái niệm Thông tin.

 

The most basic form of information, Shannon argued, is whether something is true or false- which can captured in the binary unit, or “bit”, of the form 1 or 0.

Hình thức cơ bản nhất của thông tin, Shannon lập luận, là liệu có cái gì là đúng hay sai, cái mà có thể năm bắt được trong đơn vị nhị phân, hay ‘bit’, ở dạng 1 hay 0.

 

Having indentified this fundamental unit, Shannon set about defining otherwise vague ideas about information and how to transmit it from place to place.

Sau khi xác định những đơn vị cơ bản này, Shannon đã thiết lập định nghĩa khác những ý tưởng  mơ hồ liên quan đến thông tin và làm thế nào để truyền thông tin từ địa điểm này tới địa điểm khác.

 

In the process, he discovered something surprising: it is always possible to guarantee information will get through random interference-“noise”- intact.

Trong quá trình này, ông ấy đã khám phá ra những thứ đáng ngạc nhiên: đó là luôn luôn có thể để đảm bảo thông tin sẽ bị can thiệp ngẫu nhiên – ‘tiếng ồn’ – còn nguyên vẹn.

 

D

Noise usually means unwanted sounds which interfere with genuine information.

Tiếng ồn thường được hiểu là âm thanh không mong muốn gây cản trở các thông tin chính xác.

 

Information Theory generalises this idea via theorems that capture the effects of noise with mathematical precision.

Lý thuyết thông tinh đã khái quát hóa ý tưởng này qua các định lý nắm bắt những ảnh hưởng của tiếng ồn tới độ chính xác toán học.

 

In particular, Shannon showed that noise sets a limit on the rate at which information can pass along communication channels while remaining error-free.

Cụ thể, Shannon đã cho thấy tiếng ồn đặt ra một giới hạn tốc độ thông tin có thể truyền qua kênh truyền thông và duy trì việc không có lỗi.

 

This rate depends on the relative strengths of the signal and noise travelling down the communication channel, and its on capacity (its ‘bandwidth’).

Tốc độ này phụ thuộc vào cường độ tương đối của tín hiệu và tiếng ồn đi xuống các kênh truyền thông, và dung lượng của nó (dãy sóng của nó).

 

The resulting limit, given in units of bits per second, is the absolute maximum rate of error-free communication given signal strengths and noise level.

Giới hạn kết quả, tính theo đơn vị bit/giây, tỷ lệ hoàn toàn tuyệt đối của việc truyền đạt không có lỗi cho cường độ tín hiệu và mức độ tiếng ồn.

 

The trick, Shannon showed, is to find ways of packaging up – coding – information to cope with the ravages of noise, while staying within the information – carrying capacity – bandwidth – of the communication system being used.

Bí quyết của Shannon cho thấy là tìm cách đóng gói - "mã hóa" - thông tin để đối phó với sự tàn phá của tiếng ồn, trong khi vẫn ở trong thông tin - "khả năng vận chuyển" – ‘dãy sóng’- của hệ thống truyền thông đang được sử dụng.

 

E

Over the years scientists have devised many coding methods, and they have proved crucial in many technological feats.

Trong những năm qua, các nhà khoa học đã phát minh nhiều cách mã hóa và họ chứng minh được tầm quan trọng trong nhiều thành tựu kỹ thuật.

 

The Voyager spacecraft transmitted data using codes which added one extra bit for every single bit of information; the result was an error rate of just one bit in 10000 – and stunningly clear pictures of the planets.

Con tàu vũ trụ Voyager đã truyền dữ liệu bằng cách sử dụng mã số đã thêm một bit cho mỗi bit thông tin; kết quả là tỷ lệ lỗi chỉ là một chút trong 10,000 và hình ảnh rõ ràng rõ ràng của các hành tinh.

 

Other code have become part of everyday life – such as the Universe Product Code, or bar code, which uses a simple error – defecting system that ensures supermarket check – out lasers can read the price even on, say, the crumbled bag crisps.

Các mã khác đã trở thành một phần của cuộc sống hàng ngày - chẳng hạn như mã sản phẩm chung hoặc mã vạch, sử dụng một hệ thống phát hiện lỗi đơn giản để đảm bảo rằng các laser kiểm tra siêu thị có thể đọc được giá cả, ví dụ như một túi crisps crumpled.

 

As recently as 1993, engineers made a major breakthrough by discovering so – called turbo codes – which come very close to Shannon ‘ ultimate limit for the maximum rate that data can be transmitted reliably, and now play a key role in the mobile videophone revolution.

Gần đây vào năm 1993, các kỹ sư đã thực hiện một bước đột phá lớn bằng cách khám phá ra cái gọi là các mã turbo – cái mà đến rất gần với giới hạn tối đa của Shannon cho tốc độ tối đa mà dữ liệu có thể được truyền một cách đáng tin cậy và giờ đây đóng một vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng điện thoại di động.

 

F

Shannon also laid the foundation of more efficient ways of storing information, by stripping out superfluous (‘rebundant’) bits data which contributed little real information.

Shannon cũng đặt nền móng cho cách lưu trữ thông tin hiệu quả hơn, bằng cách loại bỏ các bit không cần thiết ('dư thừa') khỏi các dữ liệu có ít thông tin thực tế.

 

As mobile phone text messages like ‘I CN C U’ show, it is often possible to leave out a lot of data without losing much meaning.

Như tin nhắn văn bản trong điện thoại như ‘I CN C U’ hiển thị, nó thường để lại rất nhiều dữ liệu mà không mất nhiều ý nghĩa.

 

As with error correction, however, there is a limit beyond which messages become to ambiguous.

Tuy nhiên, với việc sửa lỗi, có một giới hạn hơn cái mà đó tin nhắn trở nên quá mơ hồ.

 

Shannon showed how to calculate this limit, opening the way to the design of compression methods that cram maximum information into the minimum space.

Shannon đã trình bày cách để tính toán giới hạn đó, mở ra cách để thiết kế những phương pháp nén để tạo ra thông tin tối đa trong không gian tối thiểu.

 

Information theory lies at the heart of everything-from DVD players and genetic code of DNA to the physics of universe at its most fundamental. 

Lý thuyết thông tin nằm ở trong tim của mọi vật từ đầu đĩa DVD và mã di truyền ADN tới các vật thể đơn giản nhất trong vũ trụ. 

 

It has been central to the development of the science of communication, which enables data to be sent electronically and has therefore had a major impact on our life.

Nó đã là trung tâm của sự phát triển của khoa học truyền thông, cho phép dữ liệu được gửi bằng điện tử và do đó có tác động to lớn đến cuộc sống của chúng ta.

 

In April 2002 an event took place which demonstrated one of the many applications of information theory.

Vào tháng 4 năm 2002, 1 sự kiện đã tổ chức chứng minh một trong nhiều ứng dụng của lý thuyết thông tin.

 

The space probe, Voyager I, launched in 1977, had sent back spectacular images of Jupiter and Santurn and then soared out of Solar System on one-way mission to the stars.

Tàu du hành vũ trụ, Voyager I, đưa ra năm 1977, đã gửi trở lại các hình ảnh kì lạ của sao Mộc và sao Thổ và sau đó bay ra ngoài hệ mặt trời với sứ mệnh là tới các ngôi sao.

 

After 25 years of exposure to the freezing temperatures of deep space, the probe was beginning to show its age.

Sau 25 năm tiếp xúc với nhiệt độ đông cứng của không gian sâu thẳm, tàu vũ trụ đã bắt đầu cho thấy thời kì của nó.

 

Sensors and circuits were on the brink of failing and NASA experts realised that they had to do something or lose contact with their probe forever.

Các cảm biến và mạch đã đứng trên bờ vực thất bại và các chuyên gia NASA đã nhận ra rằng chúng ta phải làm gì đó hoặc sẽ mất con tàu mãi mãi.

 

The solution was to get a message to Voyager I to instruct it to use spares to change the failing parts.

Giải pháp là gửi 1 thông điệp tới tàu Voyager I để hướng dẫn nó sử dụng các phần dự trữ để sửa chữa các bộ phận hỏng.

 

With the probe 12 billion kilometres from Earth, this was not easy task.

Với 1 con tàu cách Trái đất 12 tỉ km, thì đó là bài toán không hề dễ.

 

By means of a radio dish belonging to NASA’s Deep Space Network, the message was sent out into depths of space.

Bằng một chiếc đĩa vô tuyến thuộc Mạng Không gian Vũ trụ của NASA, thông điệp đã được gửi đi vào khoảng không của không gian.

 

Even travelling at the speed of light, it took over 11 hours to reach its target, beyond the orbit of Pluto.

Dù cho hành trình đi với tốc độ ánh sáng, nó cũng mất hơn 11 tiếng để tới điểm mong muốn, lớn hơn quỹ đạo của sao Diêm Vương.

 

Yet, incredibly, the little probe managed to hear the faint call from its home planet, and successfully made the switchover.

Tuy nhiên, thật kì diệu, chiếc tàu vũ trụ nhỏ bé đã xoay sở để nghe tiếng gọi yếu ớt từ hành tinh nó, và đã thành công việc chuyển đổi.

 

It was the longest - distance repair job in history, and a triumph for the NASA engineers.

Đó là công việc sửa chữa với quãng đường xa nhất trong lịch sử, và là một thắng lợi cho các kỹ sư NASA. 

 

But it also highlighted the astonishing power of the techniques developed by American communication engineer Claude Shannon, who had died just a year earlier.

Nhưng nó cũng đánh dấu sức mạnh đáng ngạc nhiên của kỹ thuật phát triển bởi kỹ sư truyền thông Mỹ Claude Shannon, người mới mất một năm trước.

 

Born in 1916 in Petoskey, Michigan, Shannon showed an early talent for Maths and for building gadgets, and made breakthroughs in the foundations of computer technology when a student.

Sinh năm 1916 tại Petoskey, Michigan, Shannon đã biểu hiện là một tài năng sớm về toán học và các công cụ xây dựng, và mang đến sự phát triển quan trọng trong nền tảng của kỹ thuật máy tính khi là một sinh viên.

 

While at Bell labratories, Shannon developed Information Theory, but shunned the resulting acclaim.

Trong khi tại các phòng thí nghiệm Bell, Shannon đã phát triển lý thuyết thông tin, thì kết quả đó lại không được ca ngợi.

 

In the 1940s, he single – handedly created an entire science of communication which has since inveigled its way into a host of applications, from DVDs to satelite communications to bar codes-any area, in short, where data has to be conveyed rapidly yet accuratedly.

Trong những năm 1940, ông ấy tự tạo ra toàn bộ khoa học truyền thông cái mà từ đó truyền tải các ứng dụng của nó từ DVD đến các vệ tinh tới các vạch mã, hay bất kì nơi nào, nơi mà dữ liệu được truyền tải nhanh chóng mà chính xác.

 

This all seems light years away from the down-to-earth uses Shannon originally had for his work, which began when he was a 22-year-old graduate engineering student at the prestigious Massachusetts Institute of Technology in 1939.

Tất cả điều đó dường như xa rời nhiều năm ánh sáng từ những cách sử dụng viển vông của Shannon bắt nguồn việc làm của ông ấy, bắt đầu khi ông ấy là một sinh viên kỹ thuật 22 tuổi tốt nghiệp tại Học viện kỹ thuật Massachusetts nổi tiếng năm 1939.

 

He set out with an apparently simple aim: to pin down the precise meaning of concept of “information”.

Ông đã thiết lập một mục đích dường như rất đơn giản: định nghĩa ý nghĩa chính xác của khái niệm Thông tin.

 

The most basic form of information, Shannon argued, is whether something is true or false- which can captured in the binary unit, or “bit”, of the form 1 or 0.

Hình thức cơ bản nhất của thông tin, Shannon lập luận, là liệu có cái gì là đúng hay sai, cái mà có thể năm bắt được trong đơn vị nhị phân, hay ‘bit’, ở dạng 1 hay 0.

 

Having indentified this fundamental unit, Shannon set about defining otherwise vague ideas about information and how to transmit it from place to place.

Sau khi xác định những đơn vị cơ bản này, Shannon đã thiết lập định nghĩa khác những ý tưởng  mơ hồ liên quan đến thông tin và làm thế nào để truyền thông tin từ địa điểm này tới địa điểm khác.

 

In the process, he discovered something surprising: it is always possible to guarantee information will get through random interference-“noise”- intact.

Trong quá trình này, ông ấy đã khám phá ra những thứ đáng ngạc nhiên: đó là luôn luôn có thể để đảm bảo thông tin sẽ bị can thiệp ngẫu nhiên – ‘tiếng ồn’ – còn nguyên vẹn.

 

Noise usually means unwanted sounds which interfere with genuine information.

Tiếng ồn thường được hiểu là âm thanh không mong muốn gây cản trở các thông tin chính xác.

 

Information Theory generalises this idea via theorems that capture the effects of noise with mathematical precision.

Lý thuyết thông tinh đã khái quát hóa ý tưởng này qua các định lý nắm bắt những ảnh hưởng của tiếng ồn tới độ chính xác toán học.

 

In particular, Shannon showed that noise sets a limit on the rate at which information can pass along communication channels while remaining error-free.

Cụ thể, Shannon đã cho thấy tiếng ồn đặt ra một giới hạn tốc độ thông tin có thể truyền qua kênh truyền thông và duy trì việc không có lỗi.

 

This rate depends on the relative strengths of the signal and noise travelling down the communication channel, and its on capacity (its ‘bandwidth’).

Tốc độ này phụ thuộc vào cường độ tương đối của tín hiệu và tiếng ồn đi xuống các kênh truyền thông, và dung lượng của nó (dãy sóng của nó).

 

The resulting limit, given in units of bits per second, is the absolute maximum rate of error-free communication given signal strengths and noise level.

Giới hạn kết quả, tính theo đơn vị bit/giây, tỷ lệ hoàn toàn tuyệt đối của việc truyền đạt không có lỗi cho cường độ tín hiệu và mức độ tiếng ồn.

 

The trick, Shannon showed, is to find ways of packaging up – coding – information to cope with the ravages of noise, while staying within the information – carrying capacity – bandwidth – of the communication system being used.

Bí quyết của Shannon cho thấy là tìm cách đóng gói - "mã hóa" - thông tin để đối phó với sự tàn phá của tiếng ồn, trong khi vẫn ở trong thông tin - "khả năng vận chuyển" – ‘dãy sóng’- của hệ thống truyền thông đang được sử dụng.

 

Over the years scientists have devised many coding methods, and they have proved crucial in many technological feats.

Trong những năm qua, các nhà khoa học đã phát minh nhiều cách mã hóa và họ chứng minh được tầm quan trọng trong nhiều thành tựu kỹ thuật.

 

The Voyager spacecraft transmitted data using codes which added one extra bit for every single bit of information; the result was an error rate of just one bit in 10000 – and stunningly clear pictures of the planets.

Con tàu vũ trụ Voyager đã truyền dữ liệu bằng cách sử dụng mã số đã thêm một bit cho mỗi bit thông tin; kết quả là tỷ lệ lỗi chỉ là một chút trong 10,000 và hình ảnh rõ ràng rõ ràng của các hành tinh.

 

Other code have become part of everyday life – such as the Universe Product Code, or bar code, which uses a simple error – defecting system that ensures supermarket check – out lasers can read the price even on, say, the crumbled bag crisps.

Các mã khác đã trở thành một phần của cuộc sống hàng ngày - chẳng hạn như mã sản phẩm chung hoặc mã vạch, sử dụng một hệ thống phát hiện lỗi đơn giản để đảm bảo rằng các laser kiểm tra siêu thị có thể đọc được giá cả, ví dụ như một túi crisps crumpled.

 

As recently as 1993, engineers made a major breakthrough by discovering so – called turbo codes – which come very close to Shannon ‘ ultimate limit for the maximum rate that data can be transmitted reliably, and now play a key role in the mobile videophone revolution.

Gần đây vào năm 1993, các kỹ sư đã thực hiện một bước đột phá lớn bằng cách khám phá ra cái gọi là các mã turbo – cái mà đến rất gần với giới hạn tối đa của Shannon cho tốc độ tối đa mà dữ liệu có thể được truyền một cách đáng tin cậy và giờ đây đóng một vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng điện thoại di động.

 

Shannon also laid the foundation of more efficient ways of storing information, by stripping out superfluous (‘rebundant’) bits data which contributed little real information.

Shannon cũng đặt nền móng cho cách lưu trữ thông tin hiệu quả hơn, bằng cách loại bỏ các bit không cần thiết ('dư thừa') khỏi các dữ liệu có ít thông tin thực tế.

 

As mobile phone text messages like ‘I CN C U’ show, it is often possible to leave out a lot of data without losing much meaning.

Như tin nhắn văn bản trong điện thoại như ‘I CN C U’ hiển thị, nó thường để lại rất nhiều dữ liệu mà không mất nhiều ý nghĩa.

 

As with error correction, however, there is a limit beyond which messages become to ambiguous.

Tuy nhiên, với việc sửa lỗi, có một giới hạn hơn cái mà đó tin nhắn trở nên quá mơ hồ.

 

Shannon showed how to calculate this limit, opening the way to the design of compression methods that cram maximum information into the minimum space.

Shannon đã trình bày cách để tính toán giới hạn đó, mở ra cách để thiết kế những phương pháp nén để tạo ra thông tin tối đa trong không gian tối thiểu.

The history of the tortoise: Lịch sử loài rùa



A

If you go back far enough, everything lived in the sea.
Nếu bạn quay trở lại quá khứ đủ lâu thì bạn sẽ thấy tất cả mọi thứ đều sống dưới biển.

At various points in evolutionary history, enterprising individuals within many different animal groups moved out onto the land, sometimes even to the most parched deserts, taking their own private seawater with them in blood and cellular fluids.
Tại các thời điểm khác nhau trong lịch sử tiến hóa, các cá thể mạnh dạn trong các nhóm động vật khác nhau đã di chuyển lên đất liền, thậm chí lên các vùng sa mạc khô cằn nhất, mang theo nước biển riêng của mình trong máu và các chất lỏng tế bào.
 
In addition to the reptiles, birds, mammals and insects which we see all around us, other groups that have succeeded out of water include scorpions, snails, crustaceans such as woodlice and land crabs, millipedes and centipedes, spiders and various worms.
Ngoài các loài bò sát, chim, động vật có vú và côn trùng mà chúng ta thấy xung quanh thì các nhóm khác đã thành công khi thoát khỏi môi trường nước bao gồm bọ cạp, ốc sên, động vật giáp xác như loài mối và cua đất, động vật nhiều chân và rết, nhện và các loài sâu bọ khác nhau.
 
And we mustn’t forget the plants, without whose prior invasion of the land none of the other migrations could have happened.
Và chúng ta đừng quên thực vật mà nếu không có chúng thì không có loài nào có thể di cư lên đất liền được.
 
B

Moving from water to land involved a major redesign of every aspect of life, including breathing and reproduction.
Di chuyển từ môi trường nước sang môi trường đất liền có liên quan rất lớn đến việc thiết kế lại ất cả các khía cạnh của cuộc sống, bao gồm cả việc thở và sinh sản.
 
Nevertheless, a good number of thoroughgoing land animals later turned around, abandoned their hard-earned terrestrial re-tooling, and returned to the water again.
Tuy nhiên, về sau một số lượng lớn các động vật sống trên cạn triệt để đã quay trở lại môi trường nước khi chúng bỏ rơi các nơi khó kiếm sống trên đất liền.

Seals have only gone part way back.
Hải cẩu là loài duy nhất quay trở về môi trường nước một phần.

They show us what the intermediates might have been like, on the way to extreme cases such as whales and dugongs.
Chúng cho chúng ta thấy những loài sinh vật trung gian sẽ như thế nào trên đường phát triển thành các trường hợp cá biệt như loài cá voi hay cá nược.

Whales (including the small whales we call dolphins) and dugongs, with their close cousins the manatees, ceased to be land creatures altogether and reverted to the full marine habits of their remote ancestors.
Cá voi (bao gồm cả những con cá voi nhỏ mà chúng ta gọi là cá heo) và cá nược, với người anh em họ gần gũi với lợn biển, không còn là những sinh vật trên cạn hoàn toàn và đã trở lại thói quen dưới biển đầy đủ giống như tổ tiên xa của chúng.
 
They don’t even come ashore to breed.
Chúng thậm chí không lên bờ để sinh sản.

They do, however, still breathe air, having never developed anything equivalent to the gills of their earlier marine incarnation.
Tuy nhiên chúng vẫn hít thở không khí và không phát triển thêm bất cứ thứ gì tương đương với mang như các thế hệ tổ tiên sống dưới biển của chúng.
 
Turtles went back to the sea a very long time ago and, like all vertebrate returnees to the water, they breathe air.
Loài rùa đã trở lại biển từ rất lâu rồi và giống như tất cả những loài trở về biển có xương sống, chúng cũng hít thở không khí.

However, they are, in one respect, less fully given back to the water than whales or dugongs, for turtles still lay their eggs on beaches.
Tuy nhiên, ở một khía cạnh, loài rùa ít trở lại nước hơn cá voi hay loài cá nược nên chúng vẫn còn đẻ trứng trên các bãi biển.

C

There is evidence that all modern turtles are descended from a terrestrial ancestor which lived before most of the dinosaurs.
Có bằng chứng cho thấy là tất cả các loài rùa hiện nay có nguồn gốc từ một loài tổ tiên sống trên đất liền trước khi loài khủng long xuất hiện.
 
There are two key fossils called Proganochelys quenstedti and Palaeochersis talampayensis dating from early dinosaur times, which appear to be close to the ancestry of all modem turtles and tortoises.
Có hai hóa thạch phím gọi là Proganochelys quenstedti và Palaeochersis talampayensis có niên đại từ thời khủng long đầu tiên dường như được xem là gần với tổ tiên của tất cả các loài rùa hiện đại.
 
You might wonder how we can tell whether fossil animals lived on land or in water, especially if only fragments are found.
Bạn có thể tự hỏi làm thế nào chúng ta có thể biết được là các động vật hóa thạch này sống trên cạn hay dưới nước, đặc biệt là nếu chỉ tìm thấy được mảnh vỡ của chúng.
 
Sometimes it’s obvious.
Đôi khi đó là hiển nhiên.
 
Ichthyosaurs were reptilian contemporaries of the dinosaurs, with fins and streamlined bodies.
Thằn lằn cá là loài cùng thời bò sát với loài khủng long, có vây và các cơ quan sắp xếp hợp lý.
 
The fossils look like dolphins and they surely lived like dolphins, in the water.
Các hóa thạch được tìm thấy trông giống như cá heo và chắc chắn chúng đã sống như cá heo khi sống dưới nước.
 
With turtles it is a little less obvious.
Với rùa thì điều này ít rõ ràng hơn.
 
One way to tell is by measuring the bones of their forelimbs.
Một cách nào để biết điều đó là đo xương chi trước của chúng.
 
Walter Joyce and Jacques Gauthier, at Yale University, obtained three measurements in these particular bones of 71 species of living turtles and tortoises.
Walter Joyce và Jacques Gauthier, tại Đại học Yale, đã thực hiện ba loại đo khác nhau trong các xương đặc biệt của 71 loài rùa sống.

They used a kind of triangular graph paper to plot the three measurements against one another.
Họ đã sử dụng một loại giấy hình tam giác đo ba thông số.
 
All the land tortoise species formed a tight cluster of points in the upper part of the triangle; all the water turtles cluster in the lower part of the triangular graph.
Tất cả các loài rùa trên đất liền hình thành một cụm chặt chẽ ở các điểm trong phần trên của tam giác; tất cả các loài rùa dưới nước tập trung tại phần dưới của biểu đồ hình tam giác.
 
There was no overlap, except when they added some species that spend time both in water and on land.
Không có sự chồng chéo, trừ khi họ bổ sung thêm một số loài dành thời gian cả dưới nước và trên đất liền.
 
Sure enough, these amphibious species show up on the triangular graph approximately half way between the ‘wet cluster’ of sea turtles and the ‘dry cluster’ of land tortoises.
Chắc chắn, những loài lưỡng cư hiển thị trên đồ thị tam giác trong khoảng giữa của 'cụm ướt' của loài rùa biển và 'cụm khô' của rùa đất liền.
 
The next step was to determine where the fossils fell.
Bước tiếp theo là xác định nơi các hóa thạch được tìm thấy.
 
The bones of P quenstedti and JR talampayensis leave us in no doubt.
Các xương của loài P quenstedti và JR talampayensis lại làm cho chúng ta sáng tỏ.
 
Their points on the graph are right in the thick of the dry cluster.
Các điểm của chúng trên đồ thị nằm đúng trong phần dày của cụm khô.
 
Both these fossils were dry-land tortoises.
Cả hai hóa thạch này là rùa đất liền.
 
They come from the era before our turtles returned to the water.
Chúng có từ thời đại trước khi loài rùa của chúng ta trở về môi trường nước.
 
D

You might think, therefore, that modern land tortoises have probably stayed on land ever since those early terrestrial times, as most mammals did after a few of them went back to the sea.
Do đó bạn có thể nghĩ rằng rằng loài rùa đất liền hiện nay đã có thể ở lại trên đất liền kể từ những lần lên đất liền đầu tiên như hầu hết các động vật có vú đã làm sau khi một vài trong số chúng đã trở lại biển.
 
But apparently not.
Nhưng dường như không.
 
If you draw out the family tree of all modern turtles and tortoises, nearly all the branches are aquatic.
Nếu bạn vẽ ra cây gia phả của tất cả các loài rùa hiện nay thì gần như tất cả các nhánh của chúng đều ở dưới nước.
 
Today’s land tortoises constitute a single branch, deeply nested among branches consisting of aquatic turtles.
Rùa đất liền ngày nay là nhánh duy nhất, lồng nhau giữa các nhánh bao gồm rùa dưới nước.
 
This suggests that modern land tortoises have not stayed on land continuously since the time of P quenstedti and P talampayensis.
Điều này cho thấy rằng loài rùa đất liền hiện nay đã không còn ở lại trên đất liên tục kể từ thời điểm loài P quenstedti và P talampayensis.

Rather, their ancestors were among those who went back to the water, and they then re-emerged back onto the land in (relatively) more recent times.
Thay vào đó, tổ tiên của chúng là một trong số những loài trở lại môi trường nước, và sau đó chúng lại nổi lên trở lại đất liền trong thời gian (tương đối) gần đây.
 
E

Tortoises therefore represent a remarkable double return.
Do đó loài rùa đại diện cho một sự trở lại đáng chú ý gấp đôi.
 
In common with all mammals, reptiles and birds, their remote ancestors were marine fish and before that various more or less worm-like creatures stretching back, still in the sea, to the primeval bacteria.
Trong các động vật có vú phổ biển thì loài bò sát và các loài chim có tổ tiên xa là loài cá biển và trước đó tổ tiên chúng là những sinh vật giống sâu lúc còn ở dưới biển, cho đến các loài vi khuẩn nguyên sinh.

Later ancestors lived on land and stayed there for a very large number of generations.
Sau đó các loài tổ tiên này lên sống trên đất liền và ở lại đó với một số lượng rất lớn các thế hệ.
 
Later ancestors still evolved back into the water and became sea turtles.
Các tổ tiên sau đó vẫn tiến hoá ngược trở lại vào môi trường nước và trở thành loài rùa biển.
 
And finally they returned yet again to the land as tortoises, some of which now live in the driest of deserts.
Và cuối cùng chúng trở lại một lần nữa với đất liền dưới dạng rùa đất liền mà một số trong đó hiện đang sống ở các vùng khô cằn nhất của sa mạc.

If you go back far enough, everything lived in the sea.
Nếu bạn quay trở lại quá khứ đủ lâu thì bạn sẽ thấy tất cả mọi thứ đều sống dưới biển.

At various points in evolutionary history, enterprising individuals within many different animal groups moved out onto the land, sometimes even to the most parched deserts, taking their own private seawater with them in blood and cellular fluids.
Tại các thời điểm khác nhau trong lịch sử tiến hóa, các cá thể mạnh dạn trong các nhóm động vật khác nhau đã di chuyển lên đất liền, thậm chí lên các vùng sa mạc khô cằn nhất, mang theo nước biển riêng của mình trong máu và các chất lỏng tế bào.
 
In addition to the reptiles, birds, mammals and insects which we see all around us, other groups that have succeeded out of water include scorpions, snails, crustaceans such as woodlice and land crabs, millipedes and centipedes, spiders and various worms.
Ngoài các loài bò sát, chim, động vật có vú và côn trùng mà chúng ta thấy xung quanh thì các nhóm khác đã thành công khi thoát khỏi môi trường nước bao gồm bọ cạp, ốc sên, động vật giáp xác như loài mối và cua đất, động vật nhiều chân và rết, nhện và các loài sâu bọ khác nhau.
 
And we mustn’t forget the plants, without whose prior invasion of the land none of the other migrations could have happened.
Và chúng ta đừng quên thực vật mà nếu không có chúng thì không có loài nào có thể di cư lên đất liền được.
 
Moving from water to land involved a major redesign of every aspect of life, including breathing and reproduction.
Di chuyển từ môi trường nước sang môi trường đất liền có liên quan rất lớn đến việc thiết kế lại ất cả các khía cạnh của cuộc sống, bao gồm cả việc thở và sinh sản.
 
Nevertheless, a good number of thoroughgoing land animals later turned around, abandoned their hard-earned terrestrial re-tooling, and returned to the water again.
Tuy nhiên, về sau một số lượng lớn các động vật sống trên cạn triệt để đã quay trở lại môi trường nước khi chúng bỏ rơi các nơi khó kiếm sống trên đất liền.

Seals have only gone part way back.
Hải cẩu là loài duy nhất quay trở về môi trường nước một phần.

They show us what the intermediates might have been like, on the way to extreme cases such as whales and dugongs.
Chúng cho chúng ta thấy những loài sinh vật trung gian sẽ như thế nào trên đường phát triển thành các trường hợp cá biệt như loài cá voi hay cá nược.

Whales (including the small whales we call dolphins) and dugongs, with their close cousins the manatees, ceased to be land creatures altogether and reverted to the full marine habits of their remote ancestors.
Cá voi (bao gồm cả những con cá voi nhỏ mà chúng ta gọi là cá heo) và cá nược, với người anh em họ gần gũi với lợn biển, không còn là những sinh vật trên cạn hoàn toàn và đã trở lại thói quen dưới biển đầy đủ giống như tổ tiên xa của chúng.
 
They don’t even come ashore to breed.
Chúng thậm chí không lên bờ để sinh sản.

They do, however, still breathe air, having never developed anything equivalent to the gills of their earlier marine incarnation.
Tuy nhiên chúng vẫn hít thở không khí và không phát triển thêm bất cứ thứ gì tương đương với mang như các thế hệ tổ tiên sống dưới biển của chúng.
 
Turtles went back to the sea a very long time ago and, like all vertebrate returnees to the water, they breathe air.
Loài rùa đã trở lại biển từ rất lâu rồi và giống như tất cả những loài trở về biển có xương sống, chúng cũng hít thở không khí.

However, they are, in one respect, less fully given back to the water than whales or dugongs, for turtles still lay their eggs on beaches.
Tuy nhiên, ở một khía cạnh, loài rùa ít trở lại nước hơn cá voi hay loài cá nược nên chúng vẫn còn đẻ trứng trên các bãi biển.

There is evidence that all modern turtles are descended from a terrestrial ancestor which lived before most of the dinosaurs.
Có bằng chứng cho thấy là tất cả các loài rùa hiện nay có nguồn gốc từ một loài tổ tiên sống trên đất liền trước khi loài khủng long xuất hiện.
 
There are two key fossils called Proganochelys quenstedti and Palaeochersis talampayensis dating from early dinosaur times, which appear to be close to the ancestry of all modem turtles and tortoises.
Có hai hóa thạch phím gọi là Proganochelys quenstedti và Palaeochersis talampayensis có niên đại từ thời khủng long đầu tiên dường như được xem là gần với tổ tiên của tất cả các loài rùa hiện đại.
 
You might wonder how we can tell whether fossil animals lived on land or in water, especially if only fragments are found.
Bạn có thể tự hỏi làm thế nào chúng ta có thể biết được là các động vật hóa thạch này sống trên cạn hay dưới nước, đặc biệt là nếu chỉ tìm thấy được mảnh vỡ của chúng.
 
Sometimes it’s obvious.
Đôi khi đó là hiển nhiên.
 
Ichthyosaurs were reptilian contemporaries of the dinosaurs, with fins and streamlined bodies.
Thằn lằn cá là loài cùng thời bò sát với loài khủng long, có vây và các cơ quan sắp xếp hợp lý.
 
The fossils look like dolphins and they surely lived like dolphins, in the water.
Các hóa thạch được tìm thấy trông giống như cá heo và chắc chắn chúng đã sống như cá heo khi sống dưới nước.
 
With turtles it is a little less obvious.
Với rùa thì điều này ít rõ ràng hơn.
 
One way to tell is by measuring the bones of their forelimbs.
Một cách nào để biết điều đó là đo xương chi trước của chúng.

The man who invented synthetic dyes: Người phát minh ra thuốc nhuộm tổng hợp

 

A

The man who invented synthetic dyes William Henry Perkin was born on March 12,1838, in London, England.
Người phát minh ra thuốc nhuộm tổng hợp William Henry Perkin sinh ngày 12 tháng 3 năm 1838 ở London, Anh.

B

As a boy, Perkin’s curiosity prompted early interests in the arts, sciences, photography, and engineering.
Khi còn là một cậu bé, sự tò mò của Perkin đã sớm gợi lên những mối quan tâm về nghệ thuật, khoa học, nhiếp ảnh và kỹ thuật.

But it was a chance stumbling upon a run-down, yet functional, laboratory in his late grandfather’s home that solidified the young man’s enthusiasm for chemistry.
Tuy nhiên trong một lầntình cờ khám phá ra một phòng thí nghiệm bị bỏ quênnhưng vẫn hoạt độngtại nhà người ông quá cố của mình, chàng trai trẻ đã quan tâm nhiệt tình về hóa học hơn.

C

As a student at the City of London School, Perkin became immersed in the study of chemistry.
Khi còn là một sinh viên tại Trường Thành phố London, Perkin đã dần đắm mình trong nghiên cứu về hóa học.

His talent and devotion to the subject were perceived by his teacher, Thomas Hall, who encouraged him to attend a series of lectures given by the eminent scientist Michael Faraday at the Royal Institution.
Tài năng và sự cống hiến của ông cho môn học này đã được công nhận bởi giáo viên của ông, Thomas Hall, người khuyến khích ông tham dự một loạt các bài giảng được đưa ra bởi nhà khoa học nổi tiếng Michael Faraday tại Viện Hoàng gia.


Those speeches fired the young chemist’s enthusiasm further, and he later went on to attend the Royal College of Chemistry, which he succeeded in entering in 1853, at the age of 15.
Những bài phát biểu đó đã kích thích sự nhiệt tình của nhà nghiên cứu trẻ, và sau đó ông tiếp tục theo học tại Đại học Hóa học Hoàng gia, nơi mà ông đã thành công trong việc đăng kí vào năm 1853, ở tuổi 15.


D

At the time of Perkin’s enrolment, the Royal College of Chemistry was headed by the noted German chemist August Wilhelm Hofmann.
Vào thời điểm ghi danh của Perkin, Trường Cao đẳng Hóa học Hoàng gia được đứng đầu bởi nhà hóa học nổi tiếng người Đức August Wilhelm Hofmann.

Perkin’s scientific gifts soon caught Hofmann’s attention and, within two years, he became Hofmann’s youngest assistant.
Tài năng về khoa học của Perkin nhanh chóng thu hút sự chú ý của Hofmann, và trong vòng hai năm, ông trở thành trợ lý trẻ nhất của Hofmann.

Not long after that, Perkin made the scientific breakthrough that would bring him both fame and fortune.
Không lâu sau đó Perkin đã tạo ra những đột phá khoa học mà mang lại cho ông cả danh vọng và tiền bạc.


E

At the time, quinine was the only viable medical treatment for malaria.
Vào thời điểm đó, thuốc quinine là thuốc điều trị y khoa hữu hiệu trị bệnh sốt rét.

The drug is derived from the bark of the cinchona tree, native to South America, and by 1856 demand for the drug was surpassing the available supply.
Thuốc có nguồn gốc từ vỏ cây cinchona, có nguồn gốc ở Nam Mỹ, và vào năm 1856 nhu cầu về thuốc đã vượt quá nguồn cung hiện có.

Thus, when Hofmann made some passing comments about the desirability of a synthetic substitute for quinine, it was unsurprising that his star pupil was moved to take up the challenge.
Vì vậy, khi Hofmann đưa ra một số nhận xét về việc mong muốn của một chất thay thế tổng hợp cho quinin, không có gì đáng ngạc nhiên khi học trò ngôi sao của ông ta đã chấp nhận thử thách này.

F

During his vacation in 1856, Perkin spent his time in the laboratory on the top floor of his family’s house.
Trong kỳ nghỉ của mình năm 1856, Perkin đã dành thời gian trong phòng thí nghiệm ở tầng trên cùng trong ngôi nhà của gia đình ông.

He was attempting to manufacture quinine from aniline, an inexpensive and readily available coal tar waste product.
Ông đã cố gắng sản xuất quinine từ aniline, một sản phẩm chất thải than đá rẻ tiền và sẵn có.

Despite his best efforts, however, he did not end up with quinine.
Tuy nhiên, dù đã nỗ lực hết mình, ông đã không thành công điều chế quinin.

Instead, he produced a mysterious dark sludge.
Thay vào đó, ông đã sản xuất một chất bùn đen bí ẩn.

Luckily, Perkin’s scientific training and nature prompted him to investigate the substance further.
May mắn thay, do được huấn luyện và tài năng bẩm sinh về khoa học đã thúc đẩy Perkin nghiên cứu thêm về chất này.

Incorporating potassium dichromate and alcohol into the aniline at various stages of the experimental process, he finally produced a deep purple solution.
Kết hợp kali diicat và cồn vào aniline ở các giai đoạn khác nhau của quá trình thí nghiệm, cuối cùng ông đã tạo ra một dung dịch màu tím đậm.

And, proving the truth of the famous scientist Louis Pasteur’s words ‘chance favours only the prepared mind’, Perkin saw the potential of his unexpected find.
Và, chứng minh sự thật về những lời của nhà khoa học nổi tiếng Louis Pasteur: "Cơ hội chỉ tạo thuận lợi cho tâm trí đã chuẩn bị sẵn sàng", Perkin đã nhìn thấy tiềm năng về khám phá bất ngờ này của mình.

G

Historically, textile dyes were made from such natural sources as plants and animal excretions.
Về mặt lịch sử, thuốc nhuộm được làm từ các nguồn tự nhiên là các chất bài tiết của động vật và thực vật.

Some of these, such as the glandular mucus of snails, were difficult to obtain and outrageously expensive.
Một số trong số này, chẳng hạn như chất nhầy tuyến hạch của ốc sên, rất khó kiếm và cực kì tốn kém.

Indeed, the purple colour extracted from a snail was once so costly that in society at the time only the rich could afford it.
Thật vậy, màu tím chiết xuất từ ​​ốc sên đã từng tốn kém đến mức mà trong xã hội vào thời đó chỉ có người giàu có đủ khả năng chi trả.

Further, natural dyes tended to be muddy in hue and fade quickly.
Hơn nữa, thuốc nhuộm tự nhiên có xu hướng bị xỉn màu và bị phai nhanh chóng. .

It was against this backdrop that Perkin’s discovery was made.
Nó đã chống lại nền tảng mà phát hiện của Perkin đã làm được.

H

Perkin quickly grasped that his purple solution could be used to colour fabric, thus making it the world’s first synthetic dye.
Perkin nhanh chóng hiểu rằng cái dung dịch màu tím đã được sử dụng cho vải màu, do đó khiến nó thành thuốc nhuộm tổng hợp đầu tiên trên thế giới.

Realising the importance of this breakthrough, he lost no time in patenting it.
Nhận thức được tầm quan trọng của bước đột phá này, ông đã không mất thời gian để được cấp bằng sáng chế.

But perhaps the most fascinating of all Perkin’s reactions to his find was his nearly instant recognition that the new dye had commercial possibilities.
Nhưng có thể điều thú vị nhất trong tất cả những phản ứng của Perkin đối với phát hiện của ông là việc gần như ngay lập tức ông nhận ra rằng thuốc nhuộm mới có khả năng sinh lời.

I

Perkin originally named his dye Tyrian Purple, but it later became commonly known as mauve (from the French for the plant used to make the colour violet).
Perkin đã đặt tên cho thuốc nhuộm của ông một cách thông thường là Tyrian Purple, nhưng sau đó nó đã được biết đến nhiều như là màu cẩm quỳ (từ này có nguồn gốc từ tiếng Pháp chỉ loài thực vật tạo ra màu tím).

He asked advice of Scottish dye works owner Robert Pullar, who assured him that manufacturing the dye would be well worth it if the colour remained fast (would not fade) and the cost was relatively low.
Ông ấy đã xin lời khuyên của một ông chủ làm về thuốc nhuộm người Scotland tên là Robert Pullar, người đã đảm bảo với ông ấy rằng việc sản xuất thuốc nhuộm sẽ rất đáng để làm nếu như màu sắc giữ được lâu (tức không phai) và giá thành tương đối thấp.

So, over the fierce objections of his mentor Hofmann, he left college to give birth to the modern chemical industry.
Bởi vậy, bất chấp sự phản đối quyết liệt của người thầy của mình là Hofmann, ông rời trường đại học để cho ra đời nền công nghiệp hóa chất hiện đại.

J

With the help of his father and brother, Perkin set up a factory not far from London.
Với sự giúp đỡ của cha và anh trai, Perkin thành lập một nhà máy gần London

Utilising the cheap and plentiful coal tar that was an almost unlimited by product of London’s gas street lighting, the dye works began producing the world’s first synthetically dyed material in 1857.
Việc sử dụng nhựa than đá rẻ và nhiều gần như không giới hạn bởi sản phẩm bóng đèn đường thắp bằng khí đốt ở London, những việc liên quan đến thuốc nhuộm đã bắt đầu sản xuất ra chất liệu nhuộm tổng hợp đầu tiên trên thế giới vào năm 1857.


The company received a commercial boost from the Empress Eugenie of France, when she decided the new colour flattered her.
Công ty nhận được sự quảng bá thương mại từ nữ hoàng Eugenie của Pháp, khi mà bà ấy quyết định màu mới này đã làm hài lòng bà ta.

Very soon, mauve was the necessary shade for all the fashionable ladies in that country.
Rất nhanh chóng, màu hoa cà đã trở thành màu sắc cần thiết cho mọi quý bà sành về thời trang ở quốc gia đó.

K

Not to be outdone, England’s Queen Victoria also appeared in public wearing a mauve gown, thus making it all the rage in England as well.
Không chịu thua kém, nữ hoàng Anh Victoria cũng xuất hiện trước công chúng trong chiếc váy màu bông cà, do đó màu này trở nên phổ biến ở Anh.

The dye was bold and fast, and the public clamoured for more.
Thuốc nhuộm đậm và bền, và công chúng yêu cầu nhiều hơn.


Perkin went back to the drawing board.
Perkin quay trở về làm lại từ đầu.

L

Although Perkin’s fame was achieved and fortune assured by his first discovery, the chemist continued his research.
Mặc dù danh tiếng của Perkin đã đạt được và sự giàu có được đảm bảo bởi sự khám phá của ông, nhà hóa học này vẫn tiếp tục việc nghiên cứu của mình

Among other dyes he developed and introduced were aniline red (1859) and aniline black (1863) and, in the late 1860s, Perkin’s green.
Trong số các thuốc nhuộm khác nhau ông đã phát triển và giới thiệu là anilin đỏ (1859) và anilin đen (1863) và cuối những năm 1860 có màu xanh của Perkin.


It is important to note that Perkin’s synthetic dye discoveries had outcomes far beyond the merely decorative.
Chúng ta cũng cần chú ý rằng sự khám phá thuốc nhuộm tổng hợp của Perkin đã có kết quả vượt xa việc trang trí đơn thuần.


The dyes also became vital to medical research in many ways.
Các thuốc nhuộm cũng trở nên quan trọng đối với nghiên cứu y học trong nhiều cách.

For instance, they were used to stain previously invisible microbes and bacteria, allowing researchers to identify such bacilli as tuberculosis, cholera, and anthrax.
Ví dụ, chúng từng được sử dụng để đánh dấu vi sinh vật và vi khuẩn không được nhìn thấy trước đó, giúp các nhà nghiên cứu xác định các trực khuẩn như bệnh lao, bệnh tả, và bệnh than.


Artificial dyes continue to play a crucial role today.
Thuốc nhuộm nhân tạo tiếp tục đóng vai trò quan trọng ngày nay

And, in what would have been particularly pleasing to Perkin, their current use is in the search for a vaccine against malaria.
Và, một trong những điều đang khiến Perkin hài lòng là công dụng hiện tại của chúng là trong các nghiên cứu cho một loại vắc xin chống lại bệnhsốt rét.

The man who invented synthetic dyes William Henry Perkin was born on March 12,1838, in London, England.
Người phát minh ra thuốc nhuộm tổng hợp William Henry Perkin sinh ngày 12 tháng 3 năm 1838 ở London, Anh.

As a boy, Perkin’s curiosity prompted early interests in the arts, sciences, photography, and engineering.
Khi còn là một cậu bé, sự tò mò của Perkin đã sớm gợi lên những mối quan tâm về nghệ thuật, khoa học, nhiếp ảnh và kỹ thuật.

But it was a chance stumbling upon a run-down, yet functional, laboratory in his late grandfather’s home that solidified the young man’s enthusiasm for chemistry.
Tuy nhiên trong một lầntình cờ khám phá ra một phòng thí nghiệm bị bỏ quênnhưng vẫn hoạt độngtại nhà người ông quá cố của mình, chàng trai trẻ đã quan tâm nhiệt tình về hóa học hơn.

As a student at the City of London School, Perkin became immersed in the study of chemistry.
Khi còn là một sinh viên tại Trường Thành phố London, Perkin đã dần đắm mình trong nghiên cứu về hóa học.

His talent and devotion to the subject were perceived by his teacher, Thomas Hall, who encouraged him to attend a series of lectures given by the eminent scientist Michael Faraday at the Royal Institution.
Tài năng và sự cống hiến của ông cho môn học này đã được công nhận bởi giáo viên của ông, Thomas Hall, người khuyến khích ông tham dự một loạt các bài giảng được đưa ra bởi nhà khoa học nổi tiếng Michael Faraday tại Viện Hoàng gia.


Those speeches fired the young chemist’s enthusiasm further, and he later went on to attend the Royal College of Chemistry, which he succeeded in entering in 1853, at the age of 15.
Những bài phát biểu đó đã kích thích sự nhiệt tình của nhà nghiên cứu trẻ, và sau đó ông tiếp tục theo học tại Đại học Hóa học Hoàng gia, nơi mà ông đã thành công trong việc đăng kí vào năm 1853, ở tuổi 15.


At the time of Perkin’s enrolment, the Royal College of Chemistry was headed by the noted German chemist August Wilhelm Hofmann.
Vào thời điểm ghi danh của Perkin, Trường Cao đẳng Hóa học Hoàng gia được đứng đầu bởi nhà hóa học nổi tiếng người Đức August Wilhelm Hofmann.

Perkin’s scientific gifts soon caught Hofmann’s attention and, within two years, he became Hofmann’s youngest assistant.
Tài năng về khoa học của Perkin nhanh chóng thu hút sự chú ý của Hofmann, và trong vòng hai năm, ông trở thành trợ lý trẻ nhất của Hofmann.

Not long after that, Perkin made the scientific breakthrough that would bring him both fame and fortune.
Không lâu sau đó Perkin đã tạo ra những đột phá khoa học mà mang lại cho ông cả danh vọng và tiền bạc.


At the time, quinine was the only viable medical treatment for malaria.
Vào thời điểm đó, thuốc quinine là thuốc điều trị y khoa hữu hiệu trị bệnh sốt rét.

The drug is derived from the bark of the cinchona tree, native to South America, and by 1856 demand for the drug was surpassing the available supply.
Thuốc có nguồn gốc từ vỏ cây cinchona, có nguồn gốc ở Nam Mỹ, và vào năm 1856 nhu cầu về thuốc đã vượt quá nguồn cung hiện có.

Thus, when Hofmann made some passing comments about the desirability of a synthetic substitute for quinine, it was unsurprising that his star pupil was moved to take up the challenge.
Vì vậy, khi Hofmann đưa ra một số nhận xét về việc mong muốn của một chất thay thế tổng hợp cho quinin, không có gì đáng ngạc nhiên khi học trò ngôi sao của ông ta đã chấp nhận thử thách này.

During his vacation in 1856, Perkin spent his time in the laboratory on the top floor of his family’s house.
Trong kỳ nghỉ của mình năm 1856, Perkin đã dành thời gian trong phòng thí nghiệm ở tầng trên cùng trong ngôi nhà của gia đình ông.

He was attempting to manufacture quinine from aniline, an inexpensive and readily available coal tar waste product.
Ông đã cố gắng sản xuất quinine từ aniline, một sản phẩm chất thải than đá rẻ tiền và sẵn có.

Despite his best efforts, however, he did not end up with quinine.
Tuy nhiên, dù đã nỗ lực hết mình, ông đã không thành công điều chế quinin.

Instead, he produced a mysterious dark sludge.
Thay vào đó, ông đã sản xuất một chất bùn đen bí ẩn.

Luckily, Perkin’s scientific training and nature prompted him to investigate the substance further.
May mắn thay, do được huấn luyện và tài năng bẩm sinh về khoa học đã thúc đẩy Perkin nghiên cứu thêm về chất này.

Incorporating potassium dichromate and alcohol into the aniline at various stages of the experimental process, he finally produced a deep purple solution.
Kết hợp kali diicat và cồn vào aniline ở các giai đoạn khác nhau của quá trình thí nghiệm, cuối cùng ông đã tạo ra một dung dịch màu tím đậm.

And, proving the truth of the famous scientist Louis Pasteur’s words ‘chance favours only the prepared mind’, Perkin saw the potential of his unexpected find.
Và, chứng minh sự thật về những lời của nhà khoa học nổi tiếng Louis Pasteur: "Cơ hội chỉ tạo thuận lợi cho tâm trí đã chuẩn bị sẵn sàng", Perkin đã nhìn thấy tiềm năng về khám phá bất ngờ này của mình.

Historically, textile dyes were made from such natural sources as plants and animal excretions.
Về mặt lịch sử, thuốc nhuộm được làm từ các nguồn tự nhiên là các chất bài tiết của động vật và thực vật.

Some of these, such as the glandular mucus of snails, were difficult to obtain and outrageously expensive.
Một số trong số này, chẳng hạn như chất nhầy tuyến hạch của ốc sên, rất khó kiếm và cực kì tốn kém.

Indeed, the purple colour extracted from a snail was once so costly that in society at the time only the rich could afford it.
Thật vậy, màu tím chiết xuất từ ​​ốc sên đã từng tốn kém đến mức mà trong xã hội vào thời đó chỉ có người giàu có đủ khả năng chi trả.

Further, natural dyes tended to be muddy in hue and fade quickly.
Hơn nữa, thuốc nhuộm tự nhiên có xu hướng bị xỉn màu và bị phai nhanh chóng. .

It was against this backdrop that Perkin’s discovery was made.
Nó đã chống lại nền tảng mà phát hiện của Perkin đã làm được.

Perkin quickly grasped that his purple solution could be used to colour fabric, thus making it the world’s first synthetic dye.
Perkin nhanh chóng hiểu rằng cái dung dịch màu tím đã được sử dụng cho vải màu, do đó khiến nó thành thuốc nhuộm tổng hợp đầu tiên trên thế giới.

Realising the importance of this breakthrough, he lost no time in patenting it.
Nhận thức được tầm quan trọng của bước đột phá này, ông đã không mất thời gian để được cấp bằng sáng chế.

But perhaps the most fascinating of all Perkin’s reactions to his find was his nearly instant recognition that the new dye had commercial possibilities.
Nhưng có thể điều thú vị nhất trong tất cả những phản ứng của Perkin đối với phát hiện của ông là việc gần như ngay lập tức ông nhận ra rằng thuốc nhuộm mới có khả năng sinh lời.

Perkin originally named his dye Tyrian Purple, but it later became commonly known as mauve (from the French for the plant used to make the colour violet).
Perkin đã đặt tên cho thuốc nhuộm của ông một cách thông thường là Tyrian Purple, nhưng sau đó nó đã được biết đến nhiều như là màu cẩm quỳ (từ này có nguồn gốc từ tiếng Pháp chỉ loài thực vật tạo ra màu tím).

He asked advice of Scottish dye works owner Robert Pullar, who assured him that manufacturing the dye would be well worth it if the colour remained fast (would not fade) and the cost was relatively low.
Ông ấy đã xin lời khuyên của một ông chủ làm về thuốc nhuộm người Scotland tên là Robert Pullar, người đã đảm bảo với ông ấy rằng việc sản xuất thuốc nhuộm sẽ rất đáng để làm nếu như màu sắc giữ được lâu (tức không phai) và giá thành tương đối thấp.

NGỌC THU

ARTCANDY SHOP NGỌC THU -     Trên   bước   đường   THÀNH   CÔNG , không   có   dấu   chân   của   những   kẻ   LƯỜI   BIẾNG . ...